Nhiều nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn Việt Nam là điểm đến và mở rộng kế hoạch đầu tư kinh doanh. Ảnh: ANTĐ
Điểm đến mới trong quá trình đa dạng hóa chuỗi cung ứng
Những con số thống kê cho thấy Việt Nam đang nổi lên như điểm đến mới của hàng loạt doanh nghiệp cần đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Nhiều tập đoàn đa quốc gia tiếp tục chọn Việt Nam là điểm đến đầu tư hấp dẫn, đáng chú ý trong đó ngày càng có nhiều tập đoàn công nghệ cao. Trang Nikkei Assia của Nhật Bản đưa tin, Việt Nam đang thu hút nhiều tập đoàn sản xuất chip lớn của thế giới. Ngoài Apple,
Samsung, Panasonic đang mở rộng quy mô. Mới nhất, tập đoàn Synopsys của Mỹ cũng cho biết sẽ hỗ trợ đào tạo kĩ sư, thành lập trung tâm thiết kế chip tại Việt Nam. Các tập đoàn như Nike, Adidas, Foxconn, Intel… cũng đang mở rộng sự hiện diện tại Việt Nam.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20-8-2022, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 16,8 tỷ USD. Việt Nam đã trở thành điểm sáng trong thu hút sự chuyển dịch dòng vốn FDI và lần đầu tiên lọt vào top 20 nước dẫn đầu thế giới về thu hút FDI. Việt Nam nắm giữ vị thế dẫn đầu trong cuộc đua giành vốn FDI với các đối thủ tiềm năng như: Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Mexico.
Việt Nam trở thành lựa chọn đầy hứa hẹn cho các doanh nghiệp nước ngoài bởi Việt Nam có vị trí địa lý chiến lược khi nằm ở vị trí huyết mạch của nền kinh tế khu vực, nơi có các nền kinh tế phát triển mạnh và năng động. Đây là cầu nối giữa hai vùng kinh tế biển và kinh tế lục địa của các nước Đông Nam Á và châu Á, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tăng cường kết nối, thúc đẩy hợp tác và phát triển trong khu vực.
Ngay trong “vòng xoáy” của đại dịch Covid-19, kể cả khi chuỗi cung ứng gặp khó khăn và nhiều nhà máy phải đóng cửa, Việt Nam vẫn làm tốt và ngày càng trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Chính vì thế, từ năm 2020, Việt Nam trở thành một trong các trung tâm đón làn sóng chuyển dịch đầu tư từ Trung Quốc trong bối cảnh các doanh nghiệp trên thế giới đang đẩy nhanh quá trình đa dạng chuỗi cung ứng.
Theo các nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam còn nhiều dư địa để cạnh tranh trong xu hướng chuyển dịch sản xuất toàn cầu hiện nay. Đó là môi trường vĩ mô ổn định, nền kinh tế năng động, thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng, gần 100 triệu dân với tầng lớp trung lưu ngày càng tăng; tình hình chính trị ổn định, nhất quán trong chính sách phát triển kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài. Cùng với đó là môi trường pháp lý đầy đủ; chính sách đầu tư nước ngoài thông thoáng, mở cửa thị trường, cải cách thủ tục hành chính và ưu đãi đầu tư; môi trường kinh doanh ngày càng hoàn thiện, nhiều chỉ số về môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của Việt Nam được cải thiện. Việt Nam lại có lực lượng lao động trẻ, dồi dào, dễ đào tạo và chi phí lao động thấp; vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi với đường bờ biển dài, nhiều cảng nước sâu, cửa ngõ giao thương hàng hóa quốc tế bằng đường biển.
Chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt với các nước lớn, ngày càng có vị thế quan trọng. Việt Nam hiện đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hơn nữa, Việt Nam đã là thành viên của nhiều hiệp định thương mại đa phương và song phương quan trọng có quy mô, tầm vóc lớn. Năm 2020, Việt Nam đã phê chuẩn và triển khai có hiệu quả Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA); tham gia ký Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)…
Tranh thủ sự dịch chuyển chuỗi cung ứng
Theo các chuyên gia, đại dịch Covid-19 khiến nhiều nước đánh giá lại sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, tăng cường năng lực tự chủ, chủ nghĩa dân tộc, xu hướng hướng nội, bảo hộ tiếp tục gia tăng. Dịch chuyển đầu tư, sắp xếp lại chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu tiếp tục được thúc đẩy với động lực chính nhằm phân tán hoặc giảm thiểu rủi ro. Do đó trong thời gian tới, các hoạt động cạnh tranh trong thu hút đầu tư và tham gia chuỗi cung ứng giữa các nước đang phát triển có sự tương đồng về thị trường, trình độ phát triển, công nghệ và lao động như các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ sẽ diễn ra quyết liệt hơn.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam phải làm gì để tranh thủ sự dịch chuyển chuỗi cung ứng? Thực tế cho thấy môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn còn một số bất cập chưa được khắc phục, như hạn chế về năng lực quản lý, kết cấu hạ tầng, thủ tục đầu tư, thiếu lao động có kỹ năng, công nghiệp phụ trợ và mạng lưới logistics…
Năng lực của khu vực doanh nghiệp trong nước, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ là trở ngại lớn để thu hút chuỗi cung ứng của các tập đoàn công nghệ vào Việt Nam cũng như hạn chế khả năng Việt Nam tham gia vào các công đoạn cao trong mạng lưới sản xuất toàn cầu. Đây cũng là điểm hạn chế để Việt Nam thích ứng với xu hướng tái định hình và vận hành chuỗi cung ứng toàn cầu.
Những điểm yếu này nếu không sớm khắc phục sẽ làm tăng nguy cơ lún sâu vào bẫy gia công, lắp ráp, khó kiểm soát được các dòng đầu tư chất lượng thấp, đầu tư nước ngoài thâu tóm thị trường và doanh nghiệp trong nước, đầu tư “núp bóng”... Mục tiêu trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu và là điểm đến được nhiều doanh nghiệp lựa chọn cũng không thể thực hiện được.
Để chủ động hòa nhịp với xu hướng tái định hình chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam cần điều chỉnh quy hoạch phát triển và chiến lược tổng thể về sản xuất kinh doanh của từng vùng, từng ngành, đồng thời xây dựng và thực hiện hiệu quả chiến lược độc lập, tự chủ của nền kinh tế nhằm nâng cao sức chống chịu và khả năng cạnh tranh, thích ứng linh hoạt, hiệu quả với những biến động tình hình quốc tế, khu vực và trong nước.
Cần đánh giá thực trạng, vị thế, cơ hội và thách thức của kinh tế Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực theo từng nhóm trong 5 nhóm đối tác của chuỗi cung ứng, gồm: nhà cung ứng nguyên, nhiên vật liệu và các yếu tố đầu vào; nhà sản xuất hàng hóa; nhà phân phối và logistics; đại lý bán lẻ; khách hàng. Trên cơ sở đó, xây dựng chiến lược quốc gia và các giải pháp thực hiện để Việt Nam tham gia hiệu quả vào chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực.
Việt Nam cũng cần nghiên cứu, chuẩn bị các điều kiện về nền tảng vật chất và lực lượng lao động để đón đầu, tham gia và phát triển các loại hình - sản phẩm dịch vụ mới trong xu hướng thay đổi chuỗi cung ứng toàn cầu. Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, vốn để phát triển đội tàu vận tải biển, đặc biệt là đội tàu vận tải biển container để Việt Nam tham gia phân khúc vận tải đường dài, vươn ra các châu lục, phù hợp với xu hướng vận tải biển quốc tế…/.
Theo ANTĐ