Kết quả thu hút FDI 7 tháng năm 2020 tương đối khả quan. Ảnh: ST |
Một số tín hiệu tích cực
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), trong 7 tháng năm 2020, tổng vốn đầu tư nước ngoài rót vào Việt Nam đạt 18,82 tỷ USD, bằng 93,1% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, có 1.620 dự án mới đăng ký đầu tư vào Việt Nam, tuy giảm 21,5% so với cùng kỳ năm 2019 về số lượng dự án song lại tăng về vốn với tổng vốn đăng ký đạt 9,46 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Một trong những nguyên nhân làm tăng vốn đầu tư chủ yếu là do Dự án Nhà máy điện khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) Bạc Liêu với tổng vốn đầu tư 4 tỷ USD (chiếm 42,3% tổng vốn đăng ký mới). Dự án lớn này cũng đã đẩy quy mô dự án bình quân tăng hơn so với cùng kỳ năm 2019, từ 4,3 triệu USD năm 2019 lên 5,8 triệu USD trong năm 2020.
Tương tự, vốn điều chỉnh cũng giảm về số lượng dự án điều chỉnh nhưng lại có sự tăng trưởng về số vốn. Theo đó, đã có 619 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư, giảm 21,7% về số lượng dự án, nhưng tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt trên 4,7 tỷ USD, tăng tới 37,7% so với cùng kỳ. Đáng chú ý, chỉ tính riêng trong tháng 7, cả nước đã thu hút được 3,15 tỷ USD tăng tới 79,8% so với cùng kỳ năm 2019 và tăng 76,2% so với tháng trước đó. Đặc biệt, trong tháng 7/2020, lần đầu tiên, quốc đảo Malta, thường được biết đến như là một “thiên đường thuế” đã có nhà đầu tư dự án mới tại Việt Nam, nâng tổng số quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam lên 137 đối tác. Đây là những tín hiệu tích cực, thể hiện sự tin tưởng của nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Đánh giá về thu hút FDI trong những tháng đầu năm 2020, Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT cho biết, vốn đầu tư trong tháng 7/2020 tăng mạnh so với các tháng trước, chỉ sau tháng 4/2020 và so với cùng kỳ năm 2019. Quy mô dự án đầu tư mới, điều chỉnh cũng như quy mô góp vốn mua cổ phần đều tăng lên đáng kể, đạt 5,1 triệu USD/dự án mới, 10,7 triệu USD/lượt điều chỉnh vốn và 3,4 triệu USD/lượt góp vốn mua cổ phần.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, đại dịch Covid-19 đã có những tác động tiêu cực tới nền kinh tế thế giới, trong đó các hoạt động sản xuất, kinh doanh đã bị đình trệ, nhiều doanh nghiệp rơi vào tình cảnh khó khăn. Vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài tiếp tục giảm trong 7 tháng đầu năm, chỉ bằng 95,9% so với cùng kỳ, song mức độ giảm đang cải thiện dần so với các tháng trước đó.
Bên cạnh đó, việc đi lại của các nhà đầu tư cũng như các quyết định đầu tư mới và mở rộng quy mô dự án đầu tư nước ngoài vẫn còn bị ảnh hưởng. Số dự án mới, điều chỉnh vốn đều giảm so với cùng kỳ, nhất là các dự án đăng ký mới (giảm cả trong tháng 7 và 7 tháng). Mặc dù vốn đầu tư cấp mới và tăng vốn tăng lên, song vẫn chủ yếu tăng là nhờ các dự án lớn, đã được nộp hồ sơ và đàm phán trong một thời gian dài trước đó.
Cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư
Để thúc đẩy thu hút đầu tư nước ngoài trong bối cảnh dịch Covid-19 tác động làm suy giảm tăng trưởng, Chính phủ đã có những chỉ đạo quyết liệt về vấn đề này. Cụ thể, trong tháng 7, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 7/2020, trong đó, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo thuận lợi, tiết giảm chi phí cho người dân và doanh nghiệp. Chính phủ yêu cầu từng bộ, ngành, địa phương thành lập Tổ công tác đặc biệt thu hút FDI do các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan, Chủ tịch UBND cấp tỉnh làm Tổ trưởng để phối hợp với Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ tập trung giải quyết các vướng mắc, thúc đẩy thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài đang dịch chuyển, nhất là từ các công ty đa quốc gia, có công nghệ tiên tiến.
Tuy nhiên, mới đây, một tin không mấy vui đối với Việt Nam đó là việc ông lớn Apple có thể đang cân nhắc tạm ngừng kế hoạch sản xuất IPhone tại Việt Nam sau khi có chuyến thăm nhà máy của Luxshare, một trong những đối tác lắp ráp iPhone của Apple (tại khu công nghiệp Vân Trung, Bắc Giang) để đánh giá khả năng sản xuất iPhone tại cơ sở này. Điều này như hồi chuông cảnh báo đối với Việt Nam trong việc chuẩn bị các điều kiện để đáp ứng các tiêu chuẩn của các DN lớn. Bên cạnh khẳng định sự nỗ lực của Việt Nam trong viêc cải thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư, nhiều chuyên gia cũng từng có ý kiến lo ngại về những hạn chế có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hút đại bàng của Việt Nam. “Trong 10 năm qua, môi trường kinh doanh của Việt Nam đã tốt lên rất nhiều, nhưng tính cạnh tranh trong môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn chưa bằng các nước lân cận đang có thế mạnh thu hút FDI như Thái Lan, Indonesia”, chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu lưu ý.
Trước đó, tại diễn đàn bất động sản công nghiệp được tổ chức hồi giữa năm 2020, GS.TS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, Việt Nam đang mong đón được những dự án, những nhà đầu tư lớn và bất động sản công nghiệp là một yếu tố quan trọng thúc đẩy vấn đề này. Tuy nhiên, chất lượng quản lý khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay vẫn còn rất hạn chế... Ông cũng cho rằng, hệ thống pháp luật của chúng ta vẫn chưa sẵn sàng để đón “đại bàng”. Cũng tại diễn đàn này, chia sẻ kinh nghiệm “dọn tổ đón đại bàng”, ông Phạm Minh Phương, Chủ nhiệm CLB Ban quản lý các khu công nghiệp (KCN), khu kinh tế, Trưởng ban quản lý các KCN tỉnh Hải Dương cho rằng, để đón được “đại bàng” cần có diện tích đất đai lớn, cần chuẩn bị nhiều đất sạch, cần nhiều KCN để đón các nhà đầu tư lớn.