ADB đánh giá, sự phục hồi yếu hơn dự kiến của nhu cầu bên ngoài tiếp tục cản trở tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ, làm chậm quá trình phục hồi của việc làm và tiêu dùng trong nước. Chính sách tiền tệ thận trọng và chủ động, được hỗ trợ bởi việc kiểm soát hiệu quả giá xăng, điện, thực phẩm, chăm sóc sức khỏe và giáo dục, sẽ giúp kiểm soát lạm phát. Dự báo lạm phát tại Việt Nam được duy trì ở mức 3,8% cho năm 2023 và 4,0% cho năm 2024.
Theo Ngân hàng thế giới- WB, sản xuất công nghiệp tiếp tục cải thiện hơn nhưng triển vọng vẫn khá ảm đảm. Theo xu hướng kể từ tháng 4 năm 2023, Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) được điều chỉnh theo mùa vụ (SA) hàng tháng đã ghi nhận tốc độ tăng trưởng là 2,7% (m/m) trong tháng 11, so với 2,8% (m/m, SA) trong tháng 10, IIP tăng 5,8% (so cùng kỳ) và chỉ nhỉnh hơn một nửa so với mức trước đại dịch (trung bình 9,9 % trong giai đoạn 2018- 19). Sự cải thiện này là nhờ tăng sản lượng một số sản phẩm xuất khẩu chủ lực như dệt may, đồ nội thất, điện tử và thiết bị điện. Sản xuất phục vụ tiêu dùng nội địa như thực phẩm và đồ uống cũng tăng lần lượt 2,0% (m/m, SA) và 5,2% (m/m, SA). Những sự mở rộng này phản ánh mức tiêu dùng trong nước tương đối linh hoạt và sự phục hồi liên tục của nhu cầu bên ngoài. Tuy nhiên, triển vọng vẫn mờ nhạt khi PMI của Việt Nam tiếp tục ở mức suy giảm trong tháng 11 (47,3 – thấp nhất kể từ tháng 5 năm 2023). S&P Global PMI chỉ ra rằng số lượng đơn đặt hàng mới đã giảm trong tháng 11, cho thấy tình trạng bên cầu vẫn còn khá mong manh.
Cũng theo đánh giá của WB, xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa tiếp tục được cải thiện nhằm áp ứng sự phục hồi nhu cầu bên ngoài, tăng lần lượt 6,7% (so cùng kỳ) và 5,1% (so cùng kỳ). Xuất khẩu tăng trong tháng 11 là do tăng trưởng doanh số xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp chính (gạo, cà phê, trái cây và rau quả), điện tử (20,2% so với cùng kỳ), máy móc (5% so với cùng kỳ), giày và sản phẩm da (10,9% so với cùng kỳ) và đồ nội thất (23,6% so với cùng kỳ). Sự tăng trưởng trong nhập khẩu có liên quan chặt chẽ với sự phục hồi của xuất khẩu, do đầu vào nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu chiếm 94% tổng lượng nhập khẩu. Bất chấp những cải thiện này, xuất khẩu hàng tháng vẫn giảm 1,4% (m/m, SA) trong tháng 11, so với mức tăng 1,42% (m/m, SA) trong tháng 10, cho thấy sự phục hồi còn khá mong manh. Xuất khẩu và nhập khẩu lũy kế 11 tháng năm 2023 vẫn thấp hơn cùng kỳ năm 2022, giảm lần lượt 5,9% (so cùng kỳ) và 10,7% (so cùng kỳ).
Đặc biệt, cam kết FDI lũy kế trong 11 tháng năm 2023 tiếp tục tăng, đạt 28,8 tỷ USD, cao hơn 14,8% so với cùng kỳ năm 2022, bất chấp những bất ổn toàn cầu, phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư vào triển vọng kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, con số này vẫn thấp hơn khoảng 10% so với mức trước Covid (2019). Sản xuất chiếm hơn 60% số vốn cam kết đăng ký mới và góp vốn bổ sung. Mặt khác, bất động sản chỉ chiếm 3,5% vốn đăng ký trong 11 tháng đầu năm 2023 so với 16,7% cùng kỳ năm 2022, phản ánh tình trạng trì trệ của thị trường bất động sản trong nước. Tính đến cuối tháng 11, vốn FDI giải ngân đạt 20,3 tỷ USD, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước.
Theo WB, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) vẫn ổn định ở mức 3,5% (so cùng kỳ) vào tháng 11 năm 2023, so với 3,6% (so cùng kỳ) vào tháng 10, thấp hơn nhiều so với mục tiêu chính sách đặt ra cho năm 2023 (4,5%). Động lực chính gây ra lạm phát CPI vẫn là lương thực và nhà ở, đóng góp lần lượt 1,1 và 0,9 điểm phần trăm vào CPI tháng 11. Sự gia tăng trở lại gần đây của chi phí vận tải - vốn bị ảnh hưởng bởi giá dầu và khí đốt trong nước tăng từ tháng 8 đến tháng 10 - đã bắt đầu giảm dần vào tháng 11. Trong khi đó, lạm phát cơ bản tiếp tục giảm tốc, đứng ở mức 3,2% (so cùng kỳ) vào tháng 11 năm 2023, so với 3,4% (so cùng kỳ) vào tháng 10, do ảnh hưởng vòng hai của cú sốc giá dầu tháng 3 năm 2022 tiếp tục giảm dần.
Đáng chú ý, tăng trưởng tín dụng tăng nhẹ trong tháng 11, tăng ở mức 10,3% (so cùng kỳ) so với mức 9,3% (so cùng kỳ) trong tháng 10. Tuy nhiên, con số này vẫn thấp hơn nhiều so với mục tiêu tăng trưởng tín dụng mà NHNN đặt ra (14,5%) và mức trước đại dịch. Theo WB, tăng trưởng tín dụng chậm là do đầu tư tư nhân và niềm tin của nhà đầu tư tiếp tục suy yếu, một phần liên quan đến tình trạng trì trệ của thị trường bất động sản, vốn chiếm khoảng 21,6% dư nợ tín dụng vào năm 2022. Trong bối cảnh thị trường tín dụng trì trệ, Ngân hàng Nhà nước trong tuần cuối tháng 11 đã quyết định tái phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng giữa các ngân hàng thương mại dựa trên cơ sở đánh giá kết quả hoạt động của họ từ đầu năm đến nay.
Trước thực tế trên, WB đánh giá, do nền kinh tế vẫn phải đối mặt với những khó khăn, các cơ quan chức năng có thể xem xét gia hạn thực hiện chương trình hỗ trợ kinh tế (2022-2023) sang năm tới để cho phép các khoản đầu tư theo kế hoạch được thực hiện đầy đủ, hỗ trợ tổng cầu. Trong bối cảnh kinh tế suy thoái, những điểm yếu của khu vực tài chính đòi hỏi phải tiếp tục cảnh giác. Đồng thời, nỗ lực khôi phục niềm tin và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của thị trường bất động sản sẽ là chìa khóa hỗ trợ ổn định kinh tế trong ngắn hạn và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
Vietnam Business Forum