Mối quan hệ giữa bảo đảm an ninh môi trường với phát triển bền vững kinh tế
An ninh môi trường là trạng thái mà hệ thống các yếu tố cấu thành môi trường cân bằng nhằm bảo đảm điều kiện sống và phát triển của con người cũng như các loài sinh vật sống trong đó, nói cách khác chính là bảo vệ môi trường sống của con người. Vì vậy, khi tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra, đa dạng sinh học bị suy giảm thì an ninh môi trường không được bảo đảm.
Phát triển bền vững về kinh tế là sự phát triển kinh tế không dựa trên việc khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, không làm suy giảm sự đa dạng sinh học, không gây ra các sự cố môi trường, không làm gia tăng phát thải khí nhà kính… mà luôn có ý thức tái tạo, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, giữ gìn sự đa dạng sinh học cho các thế hệ mai sau. Phát triển kinh tế bền vững được thể hiện qua chất lượng tăng trưởng được nâng cao, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng hợp lý, tích cực.
Giữa môi trường và phát triển kinh tế luôn có mối quan hệ biện chứng. Trong đó, môi trường là địa bàn và đối tượng của phát triển kinh tế, còn phát triển kinh tế là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường. Bảo đảm an ninh môi trường nhằm phát triển bền vững về kinh tế là sự chủ động của con người trong việc lựa chọn cách thức sử dụng các nguồn lực vào tăng trưởng kinh tế nhằm bảo vệ được môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu, cũng như tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong quá trình phát triển, cần nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế gắn với sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, tái tạo, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Vấn đề bảo đảm an ninh môi trường nhằm phát triển bền vững về kinh tế đã sớm được Đảng, Nhà nước ta quan tâm và cụ thể hóa trong các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật. Tại Đại hội XIII, Đảng ta đề cập toàn diện, cụ thể và chi tiết hơn về vấn đề bảo vệ môi trường, theo đó cần “quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe của nhân dân là mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường. Quan điểm chỉ đạo trên của Đảng, được cụ thể hóa bằng các thể chế, chính sách về bảo đảm an ninh môi trường nhằm phát triển bền vững, nhấn mạnh, bảo vệ môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố trung tâm, tiên quyết cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Với sự chủ động trong chỉ đạo và thực hiện sự chỉ đạo trên, ở Việt Nam, bảo đảm an ninh môi trường nhằm phát triển bền vững về kinh tế đã đạt được một số kết quả. Tăng trưởng kinh tế đã bước đầu gắn với sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Việc sử dụng nguồn lực vào tăng trưởng các ngành ngày càng tiết kiệm, hiệu quả góp phần giúp Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn định. Tăng trưởng kinh tế đã từng bước gắn với tái tạo tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học, gắn với thích ứng với biến đổi khí hậu, hướng đến sự phát triển bền vững.
Bên cạnh kết quả đạt được nêu trên, việc bảo đảm an ninh môi trường để phát triển bền vững kinh tế ở nước ta vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục.
Tăng trưởng kinh tế chưa sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; đã và đang làm gia tăng ô nhiễm môi trường, suy giảm tài nguyên thiên nhiên. Việc chưa thực hiện được mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, cùng với mức độ công nghiệp hoá, đô thị hoá ngày càng cao; việc khai thác tài nguyên thiên nhiên ồ ạt, thiếu kiểm soát; công nghệ, thiết bị máy móc lạc hậu, tiêu tốn nhiều nhiên nguyên liệu; hạ tầng thu gom và xử lý chất thải thiếu, không được đầu tư đồng bộ đã dẫn đến ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, gây áp lực lên môi trường ngày càng cao và làm cạn kiệt tài nguyên.
Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào sử dụng năng lượng truyền thống, tỷ lệ năng lượng tái tạo còn thấp; tỷ lệ tái chế, tái sử dụng thấp nên lượng phát thải cao. Tỷ lệ tái chế, tái sử dụng thấp vừa gây lãng phí nguồn lực, vừa làm gia tăng phát thải khí nhà kính và ô nhiễm môi trường.
Tăng trưởng kinh tế đã làm gia tăng biến đổi khí hậu, làm giảm sự đa dạng sinh học. Nhiều diện tích rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ đã bị chặt bỏ; nhiều diện tích rừng ngập mặn cũng đã bị thu hẹp để mở rộng diện tích nuôi trồng thủy hải sản, làm suy giảm cả diện tích lẫn chất lượng rừng, gia tăng tần suất, quy mô và cường độ thiên tai, như: lũ ống, lũ quét, sạt lở đất, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn xảy ra trong những năm qua, làm mất đi cân bằng sinh thái, suy giảm sự đa dạng sinh học vùng ngập nước ven biển và gia tăng phát thải khí nhà kính.
Nguyên nhân là do các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế chưa nhận thức đầy đủ về bảo đảm an ninh môi trường để phát triển bền vững. Hệ thống pháp luật, chính sách về bảo vệ môi trường còn bất cập, công cụ quản lý môi trường chưa phát huy hiệu lực, hiệu quả. Bảo vệ môi trường mang tính liên ngành, liên quan đến nhiều lĩnh vực, song Luật Bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay chưa bảo đảm tính tổng thể, chưa thể hiện vai trò là luật khung chi phối hệ thống pháp luật khác. Hệ thống chính sách, công cụ quản lý nhà nước về môi trường chưa phù hợp và đồng bộ với cơ chế thị trường. Các công cụ quản lý nhà nước về môi trường, như thuế, phí môi trường chưa phát huy vai trò là công cụ điều tiết, hạn chế các hoạt động gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, thúc đẩy tăng trưởng xanh. Năng lực giám sát môi trường, cảnh báo khí hậu, thiên tai còn thấp.
Những năm tới, cần nâng cao nhận thức của các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp, người dân về bảo đảm an ninh môi trường để phát triển bền vững kinh tế. Đẩy mạnh truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng về an ninh môi trường nhất quán quan điểm không đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế. Ngoài ra, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện đánh giá tác động môi trường trong các dự án đầu tư. Lồng ghép an ninh môi trường trong các chính sách phát triển kinh tế, xã hội.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về bảo vệ môi trường và an ninh môi trường. Trước mắt, sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường nhằm thể chế hoá đầy đủ, kịp thời những chủ trương của Đảng, cũng như đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong điều kiện mới, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, Chú trọng đưa môi trường, kinh tế, xã hội trở thành ba trụ cột của phát triển; có tác động qua lại lẫn nhau. Rà soát, bổ sung hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam phù hợp với khu vực và quốc tế, đồng thời, xây dựng lộ trình áp dụng hàng rào kỹ thuật ngăn ngừa nguy cơ ô nhiễm môi trường, dịch chuyển công nghệ lạc hậu vào nước ta. Thành lập cơ quan chuyên trách bảo đảm an ninh môi trường quốc gia. Xem xét, kiện toàn bộ máy và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về môi trường từ Trung ương đến các địa phương
Xây dựng năng lực giám sát, cảnh báo khí hậu, thiên tai. Tăng cường công tác giám sát, tuân thủ và thưc thi Luật Bảo vệ môi trường. Chủ động phòng ngừa, giám sát, kiểm soát các dự án, nguồn thải có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Ứng dụng các công nghệ hiện đại, công nghệ 4.0 nhằm nâng cao năng lực dự báo khí tượng, thuỷ văn với giám sát, cảnh báo khí hậu.
Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thực hiện tăng trưởng xanh, tăng trưởng kinh tế tuần hoàn, ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, kinh doanh và coi đây là yếu tố trọng yếu trong sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu. Khuyến khích các chủ thể kinh tế đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, kinh doanh; nâng cao năng lực, nghiên cứu, chuyển giao, tiếp nhận tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất./.
N.T.M