Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: “Không áp đặt mệnh lệnh hành chính đối với cổ phần hóa, thoái vốn”. Ảnh: Diễn đàn doanh nghiệp
Phát biểu tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp nhà nước ngày 24/3, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng trong bối cảnh thế giới và trong nước đang thay đổi nhanh chóng hiện nay, việc đánh giá thực trạng hoạt động khu vực doanh nghiệp nhà nước vừa qua có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là tại thời điểm mà Chính phủ đang nỗ lực triển khai thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế nhanh hiện nay.
TỔNG TÀI SẢN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CAO GẤP 10 LẦN DOANH NGHIỆP FDI, 109 LẦN DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
Báo cáo đánh giá về hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước cho thấy, khu vực này đang nắm giữ nguồn lực lớn về vốn, tài sản, công nghệ, nhân lực chất lượng cao. Chỉ riêng các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đang nắm giữ khoảng 7% tổng tài sản và 10% vốn chủ sở hữu của toàn bộ doanh nghiệp trên thị trường.
Theo tính toán sơ bộ, tổng tài sản của khối doanh nghiệp nhà nước theo giá trị sổ sách năm 2021 khoảng 4 triệu tỷ đồng; quy mô tài sản bình quân của một doanh nghiệp nhà nước khoảng 4.100 tỷ đồng, cao gấp 10 lần doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và gấp 109 lần doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân cả giai đoạn 2016 - 2020 là 10,46%, cao hơn mức lãi suất ngân hàng trong giai đoạn. Số thuế và các khoản phải nộp bình quân của doanh nghiệp nhà nước là 576 tỷ đồng, gấp 43 lần doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 14 lần doanh nghiệp dân doanh.
Đặc biệt, doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chi phối trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng như: dầu khí, điện lực, tài chính, ngân hàng, viễn thông, hạ tầng giao thông và sản xuất, cung ứng một số nguyên vật liệu đầu vào cơ bản cho nền nền kinh tế… Hiện nay, có tới 96% khách hàng sử dụng mạng điện thoại di động là của Viettel, VNPT và Mobifone. Các ngân hàng thương mại nhà nước như: BIDV, Vietcombank, Viettinbank… chiếm hơn 50% tổng dư nợ cho vay của toàn ngành.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước có vai trò lớn trong sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích và đóng góp quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 2016-2020, vốn đầu tư của khối doanh nghiệp nhà nước chiếm 24,6% so với tổng vốn đầu tư của Nhà nước và chiếm 12% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Dù đạt được nhiều kết quả quan trọng nêu trên, nhưng theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, vẫn chưa tương xứng với nguồn lực đang nắm giữ và thị trường chi phối.
Cụ thể, trong những năm gần đây, doanh nghiệp nhà nước tuy nắm giữ nguồn lực lớn của nền kinh tế, nhưng không có các dự án đầu tư phát triển quy mô đủ lớn tạo động lực bứt phá, sức lan tỏa, hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của khu vực doanh nghiệp Việt Nam.
Tính riêng đối với 19 Tập đoàn Tổng công ty thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước và Tập đoàn Viettel, nơi nắm giữ đến gần 90% nguồn lực của khu vực doanh nghiệp nhà nước, chỉ triển khai thực hiện 03 dự án đầu tư nhóm A, trong đó có 02 dự án chuyển tiếp từ năm 2015 trở về trước và 01 dự án khởi công mới năm 2016 .
Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước nhìn chung còn thiên về “hướng nội”, chưa đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đặc biệt, việc tái cơ cấu toàn diện doanh nghiệp nhà nước vẫn mang tính hình thức, mới chủ yếu tập trung sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn để có cơ cấu hợp lý hơn, mà chưa chú trọng thực hiện các định hướng, giải pháp đột phá… để từng bước đưa doanh nghiệp tham gia sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu và vươn ra quốc tế.
“CỞI TRÓI” CHO DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Trong bối cảnh Chính phủ đang tiếp tục nỗ lực xây dựng các giải pháp thúc đẩy hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam, Bộ trưởng cho rằng, trong thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện đồng bộ pháp luật, cơ chế chính sách đảm bảo hiệu quả, hiệu lực để “cởi trói” doanh nghiệp nhà nước nhằm phát huy được lợi thế, khắc phục hạn chế, tận dụng cơ hội phát triển, hiện thực hóa vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế, trong đó tập trung vào 8 giải pháp trọng tâm.
Thứ nhất, trong thời gian tới, tăng đầu tư, tăng đổi mới sáng tạo và áp dụng khoa học công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động để doanh nghiệp nhà nước thực hiện vị trí, vai trò mở đường, dẫn dắt.
Cần phải có tư duy doanh nghiệp nhà nước đầu đàn, dẫn dắt cần phải “nghĩ lớn, làm lớn”, đầu tư các dự án quy mô lớn, có tính chất lan tỏa đối với nền kinh tế và các thành phần kinh tế khác.
Thứ hai, cần gắn phát triển doanh nghiệp nhà nước với thực hiện chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Xác định rõ ngành, lĩnh vực then chốt cần có sự hiện diện của doanh nghiệp nhà nước phù hợp với định hướng phát triển bền vững của đất nước (như năng lượng tái tạo, công nghiệp công nghệ cao, kết cấu hạ tầng quan trọng của quốc gia…).
Thứ ba, cần thay đổi nhận thức, quan điểm về cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư nhà nước tại doanh nghiệp.
“Trong đó, mục tiêu của cổ phần hóa, thoái vốn không phải là rút vốn nhà nước ra khỏi doanh nghiệp nhà nước, thu hẹp phạm vi, quy mô của khu vực doanh nghiệp nhà nước, mà tái cơ cấu lại danh mục đầu tư, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và giá trị đầu tư của nhà nước tại doanh nghiệp nói chung và của từng doanh nghiệp nhà nước nói riêng”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Hiện nay, sau hơn 30 năm sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là cổ phần hóa, thoái vốn, (nếu loại trừ các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh và nông lâm nghiệp) thì chỉ còn 94 doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn. Các doanh nghiệp nhà nước nói trên đang nắm giữ khoảng 90% tổng tài sản, 88% tổng doanh thu và 86% lợi nhuận trước thuế của toàn bộ doanh nghiệp nhà nước trên phạm vi toàn quốc.
Do đó, trong giai đoạn tới, Bộ trưởng kiến nghị cần nghiên cứu, xem xét tách biệt khỏi thể chế, chính sách áp dụng cho các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ công ích, doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ tại các địa phương. Đặc biệt, không áp đặt mệnh lệnh hành chính đối với cổ phần hóa, thoái vốn. Thay vào đó, thực hiện theo nguyên tắc và tín hiệu thị trường, đảm bảo công khai, minh bạch, hiệu quả để cơ cấu lại và huy động thêm vốn phục vụ phát triển doanh nghiệp nhà nước có liên quan.
Thứ tư, xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia đồng bộ về doanh nghiệp nhà nước, tài sản nhà nước để đánh giá, theo dõi và giám sát; qua đó, có định hướng phù hợp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Thứ năm, các Bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp cần phải thay đổi cách thức làm việc, chủ động thực hiện đầy đủ và hiệu lực các quyền chủ sở hữu tại doanh nghiệp theo quy định pháp luật và thông lệ quốc tế; không can thiệp vào quá trình điều hành, quản trị kinh doanh tại doanh nghiệp.
Thứ sáu, hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước thông qua việc phân công một Bộ làm đầu mối quản lý nhà nước thực hiện giám sát hoạt động của cơ quan đại diện chủ sở hữu, xây dựng định hướng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Thứ bảy, xây dựng cơ chế giám sát và nâng cao hiệu quả giám sát hơn theo các phương thức đánh giá hiệu quả hoạt động/đầu tư theo chỉ tiêu tài chính tổng thể, không đi theo từng dự án/hoạt động cụ thể; nâng cao trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước trước cơ quan đại diện chủ sở hữu, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin trong thực hiện giám sát hoạt động của doanh nghiệp nhà nước để đảm bảo hiệu quả trong việc phát hiện sớm các sai phạm, cảnh báo các nguy cơ làm doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ, mất vốn nhà nước.
Thứ tám, theo Bộ trưởng, nghiên cứu cơ chế, chính sách tiền lương gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là đối với quản lý cấp cao của doanh nghiệp.
“Có thể xem xét cả các Tổng giám đốc nước ngoài thí điểm tại một số Tập đoàn kinh tế, Tổng Công ty”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khuyến nghị./.
Theo Diễn đàn doanh nghiệp