Câu hỏi: Xin cho biết chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện an sinh xã hội từ đại hội VI đến đại hội XIII?
Trả lời:
Ngay từ Đại hội VI, hệ thống các giải pháp đảm bảo an sinh xã hội đồng bộ và phù hợp đã được Đảng ta đưa ra. Đó là: Thực hiện “Ba chương trình lớn: Lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu”(1); Thúc đẩy phát triển “kinh tế gia đình”; Thực hiện chính sách “giải quyết việc làm, phân phối theo lao động,..”. Từ đó, Đảng xác định “Nhiệm vụ hết sức quan trọng của tất cả các ngành, các cấp là bảo đảm được mức cần thiết và ổn định của nhân dân về lương thực và thực phẩm chủ yếu như cá, thịt, rau, nước chấm, dầu thực vật, đường mật... ”(2). Đồng thời chủ trương từng bước xây dựng và thực hiện các chính sách bảo trợ xã hội đối với toàn dân; mở rộng và phát triển các công trình sự nghiệp bảo trợ xã hội; tạo lập nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội cho những người có công với cách mạng và những người gặp khó khăn. Phương châm cơ bản để thực hiện các giải pháp này là “Nhà nước và nhân dân cùng làm” cần được quy định rõ ràng thành chế độ, vừa để huy động hợp lý sự đóng góp của nhân dân, vừa tránh mọi sự lạm dụng(3).
Các giải pháp thực hiện an sinh xã hội được xác định tại Đại hội VI của Đảng đã thể hiện tinh thần phát triển, vì con người và do đó đã nhanh chóng phát huy được hiệu quả, góp phần to lớn vào thành công chung của sự nghiệp đổi mới: “tình hình kinh tế và đời sống nhân dân dần được cải thiện, sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy, lòng tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới tăng lên”. Trên lĩnh vực kinh tế “đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế (lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu)”, “thị trường thực phẩm dồi dào. Nhu cầu mặc được đáp ứng khá. Nhà ở của một bộ phận dân cư cả ở thành thị và nông thôn được cải thiện. Tiện nghi sinh hoạt trong nhiều gia đình tăng thêm. Việc đi lại của nhân dân dễ dàng hơn...”(4).
Đến Đại hội VII, trong hệ thống các giải pháp thực hiện an sinh xã hội mà Đảng đưa ra đã nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của các hình thức bảo hiểm (bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế). Với sự đa dạng về mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội thì phương thức xã hội hoá được coi là cách làm hiệu quả nhất để chia sẻ trách nhiệm giữa Nhà nước, cộng đồng và bản thân các đối tượng thụ hưởng chính sách. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với tình hình nước ta trong giai đoạn này và thể hiện rõ bước tiến về nhận thức của Đảng trong chủ trương chuyển dần trách nhiệm từ nhà nước là chủ yếu sang việc xã hội hoá các mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội, đặc biệt là hoạt động chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công với cách mạng. “Nhà nước hỗ trợ nông dân ở những nơi bị thiên tai nặng khôi phục sản xuất và ổn định đời sống, đi đôi với vận động nông dân tương trợ lẫn nhau..., thực hiện việc toàn dân đóng góp vào quỹ đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với cách mạng”(5).
Tại Đại hội VIII, mô hình an sinh xã hội có diện bao phủ rộng với trụ cột chính là hệ thống bảo hiểm xã hội, ưu đãi xã hội và cứu trợ xã hội đã được định hình tương đối rõ ràng. Đại hội xác định trong những năm trước mắt, phải giải quyết tốt một số vấn đề xã hội như “Tập trung sức tạo việc làm. Thực hiện xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội và các hoạt động nhân dạo, từ thiện. Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất của nhân dân. Đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình. Đẩy lùi tệ nạn xã hội”(6). Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách an sinh xã hội, Đảng tiếp tục khẳng định mục tiêu kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội. Vì vậy, nhiệm vụ và giải pháp trong chương trình giải quyết các vấn đề văn hóa - xã hội mà Đại hội VIII nhấn mạnh là cần phải “Nhanh chóng triển khai chương trình quốc gia giải quyết việc làm, tạo điều kiện cho mọi người lao động tự tạo, tự tìm việc làm”. “Mở rộng chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế, áp dụng bắt buộc đối với các cơ quan, các doanh nghiệp”. “Cải thiện các chỉ tiêu cơ bản về sức khỏe cho mọi người”. “Phát triển các dịch vụ khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu của y tế nhà nước, y tế dân lập”. “Phát triển các hoạt động tình nghĩa trong xã hội, chăm sóc tốt hơn người có công với nước, gia đình liệt sĩ, thương binh, những người có khó khăn trong cuộc sống, người tàn tật, người già không nơi nương tựa và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn”(7). Chủ trương xã hội hoá việc thực hiện an sinh xã hội tiếp tục được khẳng định như là một phương thức cơ bản.
Đến Đại hội IX, hệ thống giải pháp thực hiện an sinh xã hội đã được định hình và triển khai gần như đầy đủ trong thực tế. Trong đó, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh hệ thống chính sách bảo hiểm và coi bảo hiểm xã hội là trụ cột quan trọng nhất để đảm bảo an sinh xã hội. Với quan điểm này, Đảng đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm nâng cao vị trí và vai trò của hệ thống bảo hiểm xã hội, như: “Cải cách cơ chế bảo hiểm xã hội và bảo đảm xã hội, cải cách và tăng cường chất lượng hệ thống bảo hiểm xã hội, cung cấp dịch vụ xã hội cho nhân dân, nhất là cho người nghèo, vùng nghèo. Ban hành Luật bảo hiểm xã hội”(8).
Tại Đại hội X, chủ trương từng bước “Đổi mới hệ thống bảo hiểm xã hội, đa dạng hoá hình thức bảo hiểm và phù hợp với kinh tế thị trường; xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp, thực hiện tốt chế độ bảo hộ lao động, an toàn lao động và vệ sinh lao động; Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi người có công với nước; vận động toàn xã hội tham gia các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa; nâng cao mức sống về vật chất; tinh thần của người có công ngang bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư”(9); “Phát triển và nâng cao chất lượng bảo hiểm y tế; xây dựng và thực hiện tốt lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân; phát triển mạnh các loại hình bảo hiểm y tế tự nguyện, bảo hiểm y tế cộng đồng”(10).
Đại hội XI của Đảng xác định “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”(11), do đó, tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đại hội cũng nhấn mạnh “Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển” trong đó cần tập trung giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu nhập; bảo đảm an sinh xã hội; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân... Một trong những nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện an sinh xã hội là “Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội , nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong cuộc sống. Tăng tỉ lệ người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm. Đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ bảo hiểm xã hội,... Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn... Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công...”(12)
Đại hội XII của Đảng diễn ra trong bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều thay đổi. Đảng tiếp tục khẳng định bảo đảm an sinh xã hội là một trong các nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ mới mà một trong những phương hướng, nhiệm vụ cần thực hiện đó là: Giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội. Cụ thể: “Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động. Huy động tốt nhất nguồn lực lao động để phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng. Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Điều chỉnh chính sách dạy nghề, gắn đào tạo với sử dụng. Điều chỉnh chính sách xuất khẩu lao động hợp lý. Hoàn thiện và thực hiện chính sách bảo hộ lao động. Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống. Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động,... Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân...”(13)
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định: “Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách đối với người có công trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước và xã hội, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú”(14). “Cải cách chính sách tiền lương theo hướng gắn với sự thay đổi giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng năng suất lao động, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động, tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả. Chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, cố gắng bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân về nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế, việc làm...”(15). Theo tinh thần Đại hội XIII, việc cải cách chính sách tiền lương phải bảo đảm tính tổng thể, hệ thống, đồng bộ, kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục có hiệu quả những hạn chế, bất cập của chính sách tiền lương hiện hành; tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động và quy luật khách quan của kinh tế thị trường, lấy tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng lương; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; có lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và nguồn lực của đất nước. Trong những năm tới tiếp tục “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”(16).
Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đã ban hành Nghị quyết 42-NQ/TW (ngày 24-11-2023) “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”. Nghị quyết nhấn mạnh một trong những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cần tập trung thực hiện là “Xây dựng hệ thống an sinh xã hội bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, không để ai bị bỏ lại phía sau”; “Nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng” với những biện pháp cụ thể như: Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội, người dân và giữa các nhóm dân cư, bảo đảm bền vững và công bằng xã hội. Chú trọng phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế, bao phủ được toàn bộ lực lượng lao động; tiếp tục cải cách, mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội, tạo cơ hội tham gia và bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người lao động. Thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động và thành viên của các tổ chức kinh tế tập thể làm việc theo hợp đồng, hưởng tiền lương, tiền công theo quy định của pháp luật.../.
Chú thích và tài liệu tham khảo:
(1), (2), (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.47 (1986), Nxb. Chính trị quốc gia, H., 2006, tr.487; tr.523; tr.528.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.51(1991), Nxb. Chính trị quốc gia, H., 2007, tr.51, 52, 63.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.51 (1991), Nxb. Chính trị quốc gia, H., 2006, tr.126.
(6), (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H., 1996, tr.114-118; tr.203-209.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H., 2001, tr.336.
(9), (10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H., 2006, tr.216; tr.219.
(11), (12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., 2011, tr. 98; tr.228-229.
(13) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., 2016, tr. 136-137.
(14), (15), (16) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, t.I, H., 2021, tr.148-149; tr.149; tr.47.
Ngọc Cảnh