Cồng chiêng Tây Nguyên là di sản văn hóa mang đậm dấu ấn thời gian và không gian. Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên luôn là một không gian đặc biệt quan trọng thể hiện bản sắc văn hoá của người dân Tây Nguyên. Ngày 25/11/2005, không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể và kiệt tác truyền khẩu của nhân loại. Năm 2008, không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên được cộng nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng ở các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng. Cồng chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, bạc hoặc đồng đen luôn gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân Tây Nguyên. Với người Tây Nguyên, cồng chiêng và văn hoá cồng chiêng là tài sản vô giá. Cồng là loại có núm, chiêng không núm. Nhạc cụ này có nhiều cỡ, đường kính từ 20cm đến 60cm, loại cực đại từ 90cm đến 120cm. Cồng chiêng có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, bộ từ 2 đến 12 hoặc 13 chiếc, thậm chí có nơi từ 18 đến 20 chiếc. Cồng chiêng là nhạc cụ dành riêng cho nam giới của phần các tộc người Tây Nguyên như: Gia Rai, Êđê Kpah, Ba Na, Xơ Đăng, Brâu, Cơ Ho,… Nhưng cũng có những tộc người như Mạ, M’nong thì cả nam lẫn nữ đều có thể sử dụng cồng chiêng. Một số ít tộc người như Ê Đê Bih thì chỉ có nữ giới mới được sử dụng cồng chiêng.
Ảnh: Nguồn Internet.
Theo quan niệm của người dân Tây Nguyên, mỗi chiếc cồng chiêng đều ẩn chứa một vị thần và chiếc cồng chiêng càng lâu năm thì quyền lực và sức mạnh của vị thần càng lớn. Người dân nơi đây quan niệm cồng chiêng là tiếng nói tâm linh, phương tiện giao tiếp với lực lượng siêu nhiên và là tâm hồn của con người được thể hiện trong đời sống sinh hoạt cộng đồng. Bên cạnh đó, cồng chiêng còn biểu trưng cho quyền lực và sự giàu có của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng.
Ảnh: Nguồn Internet.
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm cồng chiêng và các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng. Dàn cồng chiêng Tây Nguyên lấy thang bồi âm tự nhiên làm cơ sở để thiết lập thang âm của riêng mình. Trong đó, dàn cồng chiêng của mỗi tộc người đều cấu tạo bởi thang 3 âm, 5 âm hay 6 âm cơ bản và bên cạnh âm cơ bản bao giờ cũng vang kèm một vài âm phụ khác. Do đó, một dàn 6 chiêng sẽ cho ta tối thiểu 12 âm hay nhiều hơn nữa nên âm sắc cồng chiêng nghe thật đầy đặn và có chiều sâu. Cồng chiêng luôn được sử dụng trong những nghi lễ vòng đời, lễ hội truyền thống của người dân nơi đây như: Lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, Lễ trưởng thành, Lễ bỏ mả, Lễ cúng máng nước, Lễ mừng cơm mới, Lễ đóng cửa kho, Lễ đâm trâu, Lễ cúng mừng lúa mới,... Trong những buổi sinh hoạt cộng đồng phải có tiếng cồng chiêng để nối kết những con người trong một cộng đồng và những địa điểm tổ chức các lễ hội đó là nhà dài, nhà rông, nhà gươl, rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên.
Ảnh: Nguồn Internet.
Âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên là kết tinh của hồn thiêng sông núi qua nhiều thế hệ, thể hiện trình độ điêu luyện của người chơi trong việc áp dụng những kỹ năng đánh chiêng và kỹ năng chế tác chiêng. Vào những ngày lễ hội, người dân nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vò rượu cần và vang lên âm thanh của tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng.
Ảnh: Nguồn Internet.
Cồng chiêng gắn với Tây Nguyên như một phần không thể thiếu trong suốt vòng đời của mỗi người và trong tất cả các sự kiện quan trọng của cộng đồng. Đó là những tín ngưỡng hình thành nên một thế giới thần bí, nơi những chiếc cồng chiêng là cầu nối thông linh giữa con người với thần linh và thế giới siêu nhiên. Cồng chiêng góp phần tạo nên không gian văn hoá riêng của khu vực Tây Nguyên và đi vào những sử thi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên vừa lãng mạn, vừa hùng tráng.
Khánh An