Cách mạng công nghiệp luôn là sự khởi đầu và nhằm đáp ứng ba yếu tố nâng cao năng lực của lĩnh vực sản xuất là: tốc độ, quy mô và tối ưu hóa. (Nguồn: Reuters)
Cùng với sự hình thành của cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập kinh tế thế giới, những thành quả nhất định của 36 năm đổi mới (từ 1986) đã định vị Việt Nam với vị thế nổi trội.
Việt Nam có quan hệ kinh tế song phương với trên 230 nước và vùng lãnh thổ, quan hệ đa phương bao gồm 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) với 60 nền kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức ba xu hướng kinh tế chính trong bối cảnh mới:
Thứ nhất, xu hướng vừa hợp tác vừa đấu tranh trong nền kinh tế thế giới vẫn không thay đổi. Cụ thể, mặc dù nền kinh tế Trung Quốc và Mỹ đang cạnh tranh gay gắt, song hai bên vẫn duy trì hợp tác. Đồng thời, đây cũng là hai thị trường lớn nhất của Việt Nam, đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước cần khéo léo tìm ra lĩnh vực hợp tác phù hợp để không “mắc kẹt”.
Thứ hai, đó là yếu tố địa chính trị trong kinh tế quốc tế thay đổi, khi xuất hiện nhiều sáng kiến hợp tác kinh tế mới, trong đó có Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vì thịnh vượng (IPEF) của Mỹ. Yếu tố này có tác động mạnh mẽ tới vấn đề vận chuyển hàng hóa và chuyển dịch chuỗi cung ứng.
Đặc biệt, trong bối cảnh xung đột Nga-Ukraine làm tăng chi phí nhiên liệu vận tải, gián tiếp thúc đẩy hiện thực hóa dự án khu vực kênh đào Kra tại Thái Lan, đem lại cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam và nhất là các tỉnh phía Nam.
Thứ ba, cách mạng công nghiệp lần thứ tư (hay công nghiệp 4.0) là quá trình áp dụng tự động hóa liên tục các hoạt động sản xuất và công nghiệp truyền thống, sử dụng công nghệ trí tuệ thông minh nhân tạo (AI) hiện đại. Giao tiếp giữa máy với máy (M2M) và Internet vạn vật kết nối (IoT) quy mô lớn được tích hợp để tăng cường tự động hóa, cải thiện giao tiếp và tự giám sát. Đồng thời, sản xuất các máy thông minh có thể phân tích và chẩn đoán các vấn đề mà không cần sự can thiệp của con người.
Có thể thấy, cách mạng công nghiệp luôn là sự khởi đầu và nhằm đáp ứng ba yếu tố nâng cao năng lực của lĩnh vực sản xuất là: tốc độ, quy mô và tối ưu hóa. Cũng có thể thấy sự khác biệt của cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động cả ba lĩnh vực doanh nghiệp: sản xuất công nghiệp, thương mại và tài chính ngân hàng.
Tuy nhiên, số liệu thống kê cho thấy, chúng ta cũng đang đối mặt với khoảng cách lớn về AI. Theo đó, tại Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines, mức độ đầu tư vào các công ty giải pháp AI đều dưới 1 USD/đầu người. Trong khi đó, con số này ở Singapore là 68 USD, Trung Quốc (21 USD) và Mỹ (155 USD).
Điều này đặt ra thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam khi cần phải đầu tư mạnh mẽ hơn nữa để tận dụng nền tảng kỹ thuật số trong sản xuất và phân phối hàng hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Trong một thế giới vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, điều kiện tiên quyết là phải nâng cao năng lực cốt lõi để sản xuất được hàng hóa và dịch vụ chất lượng tốt. Các chương trình hội nhập kinh tế quốc tế đều đòi hỏi năng lực sản xuất hàng hóa nội địa để hưởng thuế quan ưu đãi thông qua các quy định hàm lượng chế biến và tỷ lệ nguyên liệu xuất xứ của hàng hóa xuất khẩu.
Tuy nhiên, sự chuyển đổi địa chính trị khu vực và phát triển của công nghệ số dẫn đến các sáng kiến mới hợp tác và cạnh tranh nhiều hơn ở lĩnh vực hàng rào kỹ thuật phi thuế quan, nhất là về chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm (cả kỹ thuật và xã hội). Sáng kiến IPEF được thiết kế như một công cụ để tăng cường hợp tác giữa Mỹ và các đối tác ở châu Á, là một ví dụ.
Sự chuyển dịch của chuỗi cung ứng khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Không giống như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) - hai khối thương mại lớn nhất châu Á, IPEF không đề cập việc giảm thuế.
Thay vào đó, Mỹ tìm kiếm sự hợp tác trong các lĩnh vực chiến lược, chẳng hạn như từ việc chuyển dịch và phát triển các chuỗi cung ứng tới việc thiết lập các tiêu chuẩn quy tắc cho nền kinh tế kỹ thuật số, đảm bảo vận hành hoàn hảo cho chuỗi giá trị sản phẩm, từ khâu nguyên liệu cho tới người tiêu dùng.
Trong quá trình thay đổi đó của thế giới, việc xây dựng các mô hình quản lý mới chuỗi cung ứng và ứng dụng công nghệ số trong các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọng ở Việt Nam.
Tuy nhiên, với sự phát triển của công nghệ số, mô hình mới có thể gộp các khâu trung gian, đại lý, bán buôn bằng việc thành lập các trung tâm tiếp thị điều phối có thể ứng dụng công nghệ số trong lựa chọn, phân loại theo tiêu chuẩn thị trường, đóng gói và bán buôn… với đòi hỏi ngày càng khắt khe và phức tạp của thị trường.
Các công nghệ có thể được áp dụng ở đây là: cảm biến để tương tác với các hộ nông dân quản lý đất, nước, ánh sáng, độ ẩm, nhiệt độ; IoT, GPS kết nối và xác định vị trí; dữ liệu lớn (big data) để dự báo khí hậu; robot trong kho vận và các phần mềm dự báo thị trường cũng như xu hướng nhu cầu người tiêu dùng…
Có thể nói, các trung tâm điều phối thông minh này sẽ là nơi ứng dụng kỹ thuật số để quản lý chuỗi cung ứng ngày càng phức tạp cũng như giá trị sản phẩm đảm bảo quy luật cung cầu theo kinh tế thị trường thời đại 4.0.
Theo công ty tư vấn Kearney của Mỹ và EDBI của Singapore, công nghệ số nói chung và AI nói riêng có thể chuyển nền kinh tế khu vực ASEAN, trong đó có Việt Nam, sang một nấc thang cao hơn. Nếu các thành viên ASEAN bắt kịp tốc độ áp dụng AI, họ có thể tăng thêm gần 1 nghìn tỷ USD (riêng Việt Nam trên 100 tỷ) vào GDP của khu vực năm 2030.
Mô hình đề xuất chuỗi cung ứng thời đại 4.0.
Để được như vậy, cần phải xây dựng và thực thi bốn chính sách cụ thể:
Thứ nhất, cần xây dựng chính sách dữ liệu khu vực chung của Việt Nam phù hợp với xu hướng tiêu chuẩn và quy tắc chuyển đổi số của các nước công nghiệp phát triển.
Thứ hai, cần xây dựng cam kết chung để đào tạo kỹ năng kỹ thuật số cho lực lượng lao động.
Thứ ba, ứng dụng robot, IoT, AI, big data trong doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, thương mại điện tử (E-commerce) và thanh toán điện tử (Fintech).
Thứ tư, tăng cường hợp tác và nâng cao năng lực trong lĩnh vực an ninh mạng.
Triển khai hiệu quả các giải pháp trên sẽ thúc đẩy sự nghiệp phát triển công nghệ số, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược phát triển bền vững đất nước đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
TS Đoàn Duy Khương (Theo TGVN)