Với những cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ, cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu lên tới gần 100% biểu thuế trong Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) như "con đường cao tốc" nối Việt Nam với thị trường quy mô GDP 15.000 tỷ USD, mở ra cơ hội gia tăng xuất khẩu rất lớn, nhất là đối với những mặt hàng lợi thế như dệt may, da giày, nông thủy sản, đồ gỗ...
Phải từ bỏ kiểu làm ăn "chộp giật"
Thời gian qua, doanh nghiệp trong nước còn loay hoay tại thị trường EU do cạnh tranh đến từ các nền công nghiệp quy mô khác trên thế giới. Do vậy, thị phần hàng hóa của Việt Nam tại EU còn khiêm tốn.
Theo đánh giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), hiện tại, hiểu biết về EVFTA của các doanh nghiệp Việt không nhiều. Hơn nữa, khả năng thay đổi để thích hợp với hiệp định này cũng khá hạn chế bởi khó khăn trong cải thiện điều kiện lao động, đầu tư vào công nghệ mới, đáp ứng yêu cầu nội địa hóa…
EVFTA được thông qua là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. (Ảnh VOV) |
Tuy nhiên, sức ép cạnh tranh mà EVFTA mang lại được nhận định là sức ép cạnh tranh lành mạnh, có chọn lọc và theo lộ trình phù hợp. Do đó, EVFTA cũng là cơ hội, sức ép hợp lý để các doanh nghiệp trong nước điều chỉnh, thay đổi phương thức, chiến lược kinh doanh và nâng cấp quản trị, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để tận dụng những cơ hội từ hiệp định này.
Ông Tô Hoài Nam - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ - cho rằng, muốn tham gia vào chuỗi giá trị hàng hóa hưởng lợi từ EVFTA, doanh nghiệp phải chuẩn hóa quy trình sản xuất, đáp ứng các tiêu chuẩn sản xuất, lao động, xuất xứ, nguyên phụ liệu… Đặc biệt, trong lĩnh vực nông sản thực phẩm, phải nỗ lực nhiều nhất do sản phẩm của doanh nghiệp Việt trong lĩnh vực sản xuất này chưa được người tiêu dùng EU biết đến, thậm chí chưa tạo được uy tín đáng kể.
Ngoài ra, để đưa được hàng vào EU thì các doanh nghiệp Việt Nam cần vượt qua chính mình, từ bỏ thói quen làm ăn "chộp giật", thiếu liên kết, không vào các chuỗi..., ông Tô Hoài Nam lưu ý.
Tuân thủ luật chơi
Theo TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, EVFTA sẽ mở ra thị trường mới cho sản xuất, xuất khẩu, đầu tư... thông qua việc cắt giảm các dòng thuế, thủ tục xuất nhập khẩu, đầu tư - kinh doanh thông thoáng hơn.
"Mình cứ nói giảm thuế thì thâm nhập được thị trường, nhưng câu hỏi đặt ra là có vượt qua được các rào cản mà chủ yếu là của chính mình hay không", TS. Cung nêu rõ.
Các tiêu chuẩn kỹ thuật, về môi trường, quy định về lao động... thuộc về hàng rào bên ngoài, theo ông Cung thì với nhiều doanh nghiệp, trong những ngành hàng, lĩnh vực hội nhập sâu, như dệt may, thủy sản..., không hề mới, nhiều tiêu chuẩn doanh nghiệp đã vượt qua với ý thức rất rõ về cơ hội thị trường.
TS. Nguyễn Đình Cung không quan ngại về các hàng rào kỹ thuật này, vì chúng được công bố công khai, doanh nghiệp nếu muốn thâm nhập thị trường đều biết mình phải làm gì, tuân thủ các điều kiện gì, chi phí ra sao... Điều cần thiết là phải nghiên cứu kỹ để nắm rõ các quy định này, từ đó có kế hoạch và chi phí tuân thủ.
Điều đáng lo, theo TS. Cung nằm ở hàng rào bên trong, đó là điều kiện kinh doanh, kiểm tra chuyên ngành, điều kiện về môi trường, lao động... có những thứ doanh nghiệp gần như không tuân thủ được, nếu tuân thủ thì chi phí rất cao. Trong khi đó khi nhập khẩu thì EU bao giờ cũng vào kiểm tra xem doanh nghiệp có tuân thủ chính quy định của nước mình hay không.
Khi các doanh nghiệp trong nước không dám chắc chắn về việc thực thi các quy định của pháp luật Việt Nam thì việc bị các nhà nhập khẩu "thổi còi" hoặc không tiếp tục ký kết hợp đồng là rất lớn, ông Cung lưu ý.
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế
Chia sẻ trên Báo Quốc tế, TS. John Walsh - Chủ nhiệm bộ môn Kinh doanh Quốc tế, Đại học RMIT Việt Nam nhận định, EVFTA mang lại một số lợi ích rõ ràng. Người tiêu dùng sẽ đón nhận nhiều loại sản phẩm rẻ hơn do được miễn giảm thuế quan. Chất lượng cuộc sống nhờ đó mà được cải thiện, đặc biệt đối với tầng lớp trung lưu ở các khu vực thành thị. Một số sản phẩm được miễn giảm thuế quan là hàng hóa trung gian, sẽ được lắp ráp và tái xuất khẩu sau đó. Việt Nam đã tham gia vào nhiều chuỗi cung ứng và chi phí giảm sẽ mang lại lợi thế cạnh tranh mới cho đất nước trong các chuỗi cung ứng đó.
Song, theo TS. John Walsh, về bản chất, các FTA thường không đối xứng. Dù các thỏa thuận này nhìn chung hứa hẹn rằng các bên sẽ cùng có lợi, nhưng điều đó không có nghĩa là lợi ích sẽ luôn được chia đều. Đồng thời, sẽ có nhiều thay đổi xảy ra và không phải mọi thay đổi này đều tốt cho các bên liên quan hay luôn được đón nhận một cách nhiệt tình. Rất nhiều doanh nghiệp sẽ phải thay đổi và một số sẽ không thể tồn tại. Và điều không tránh khỏi là sẽ có người thắng và kẻ thua trong quá trình này.
Trước thách thức cạnh tranh với những doanh nghiệp có tiềm lực ở một thị trường rất khó tính như EU, TS. John Walsh nêu rõ: Sẽ có doanh nghiệp phải ngừng hoạt động vì sự dịch chuyển và xáo trộn mà các thay đổi diễn ra. Theo thông lệ kinh doanh, doanh nghiệp nên tìm các đối tác có chuyên môn để quản lý những phần khác nhau của hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, đối với doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu sang châu Âu, họ nên bắt tay với một đối tác châu Âu có chuyên môn về thị trường phân phối và bán lẻ địa phương.
Đối với những doanh nghiệp đang đối mặt với gia tăng cạnh tranh ở thị trường nội địa, một số sẽ tiếp tục cố gắng cạnh tranh hoàn toàn bằng chi phí thấp và sẽ có người thành công. Một số có thể tận dụng những lợi ích khác của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam như hiệu ứng lan tỏa về quản lý và công nghệ.
Theo TS John Walsh, trong quá trình này, vai trò của Chính phủ là rất quan trọng, thông qua các biện pháp hỗ trợ đào tạo lại kỹ năng, cũng như tạo ra cơ hội mới cho những ai có khả năng tận dụng chúng./.
PV tổng hợp