Những thách thức lộ rõ trong 6 tháng đầu năm
Trong 6 tháng đầu năm 2023, những bất ổn của nền kinh tế - chính trị thế giới cùng với những khó khăn, thách thức của thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp và tình hình sản xuất – kinh doanh trong nước đã ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, kim ngạch xuất nhập khẩu, các chỉ số sản xuất và tăng trưởng tín dụng đều giảm so với cùng kỳ năm 2022. Tuy nhiên, bức tranh kinh tế trong nước cũng đã xuất hiện một số điểm sáng: lạm phát và tỷ giá tiếp tục xu hướng ổn định; nỗ lực giảm lãi suất bước đầu phát huy hiệu quả; tổng mức bán lẻ hàng hóa, giá trị xuất siêu, lượng khách quốc tế, giá trị giải ngân đầu tư công và FDI đăng ký mới đều tăng so với cùng kỳ năm 2022.
6 tháng đầu năm 2023 ghi nhận nhiều thách thức với tăng trưởng kinh tế, trong đó các ngành xuất khẩu khó khăn về đơn hàng đã khiến nhiều doanh nghiệp thu hẹp sản xuất. Ảnh minh họa: Diễn đoàn doanh nghiệp
Tình hình kinh tế trong nước đối mặt nhiều khó khăn, thách thức:
Thứ nhất, ngành sản xuất công nghiệp tiếp tục khó khăn, đình trệ và gia tăng số lao động bị mất việc làm. Sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới trong nước và nước ngoài giảm sút lớn khiến nhiều công ty phải thu hẹp sản xuất, thậm chí đóng cửa, kéo theo nhiều lao động bị mất việc. Số liệu 5 tháng đầu năm 2023, có hơn nửa triệu lao động bị ảnh hưởng việc làm; trong đó, số lao động bị mất việc, thôi việc là 279.409 người (chiếm 54,79%). Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lao động mất việc làm tập trung tại các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo ở một số ngành như dệt may, da giày, sản xuất và lắp ráp linh kiện điện tử, chế biến gỗ. Đây đều là những ngành có chỉ số sản xuất công nghiệp thấp nhất.
Thứ hai, niềm tin thị trường và sức khoẻ doanh nghiệp trong nước giảm sút. Tình hình sản xuất- kinh doanh khó khăn đã tác động mạnh đến doanh thu, lợi nhuận cũng như tâm lý kỳ vọng của các doanh nghiệp. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, số doanh nghiệp rút khỏi thị trường tăng 22,6% so với cùng kỳ. Các doanh nghiệp đang hoạt động phần lớn cũng phải thu hẹp quy mô sản xuất, kinh doanh. Kết quả là nền kinh tế đang trong trạng thái kém “hấp thụ” vốn, xuất hiện tình trạng "nợ vòng quanh" giữa nhà đầu tư, chủ đầu tư, nhà thầu, nhà cung cấp, tạo ra những "điểm nghẽn" về dòng tiền.
Thứ ba, tín dụng tăng trưởng thấp. Tính đến hết tháng 5/2023, tín dụng của nền kinh tế đạt trên 12,3 triệu tỷ đồng, tương đương mức tăng khoảng 3,17% so với cuối năm 2022, chưa bằng một nửa mức tăng của 5 tháng đầu năm 2022 (8,04%). Có nhiều lý do dẫn đến tín dụng năm nay tăng trưởng thấp nhưng các nguyên nhân chủ yếu có thể kể đến là (i) doanh nghiệp trong nước thiếu hụt các đơn hàng sản xuất, dẫn đến nhu cầu vay vốn suy giảm; (ii) lãi suất chính sách, lãi suất huy động có giảm nhưng lãi suất cho doanh nghiệp vay chưa giảm tương ứng và vẫn ở mức cao; (ii) thị trường bất động sản (BĐS) vẫn tiếp tục gặp khó khăn, đình trệ làm cho nhu cầu tín dụng đối với lĩnh vực này đã giảm sút nhiều; (iii) Nợ xấu có xu hướng gia tăng khiến các tổ chức tín dụng (TCTD) thận trọng khi xét duyệt cho các doanh nghiệp vay vốn.
Thứ tư, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng cao. Tình hình nợ xấu có xu hướng gia tăng trở lại, do điều kiện khách quan nền kinh tế trong nước vừa trải qua đại dịch, thì tiếp đến lại phải hứng chịu thêm các tác động tiêu cực từ kinh tế thế giới, khiến sức chống chịu của các doanh nghiệp trong nước giảm mạnh. Thêm vào đó là tác động liên thông từ thị trường BĐS, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) và lãi suất cao, đã dẫn đến hệ quả là làm cho nhiều doanh nghiệp bị chuyển nhóm nợ.
Thứ năm, thị trường BĐS và TPDN tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Thị trường BĐS trong nước đang trải qua giai đoạn đình trệ trầm lắng, do các nguyên nhân cơ bản là phần lớn các sản phẩm hiện có đều thuộc phân khúc cao cấp và trung cấp, nên vượt quá khả năng chi trả của phần lớn người mua có nhu cầu thực; lãi suất liên tục tăng và chính sách hạn chế cho vay vào lĩnh vực này của các ngân hàng thương mại trong thời gian qua. Bên cạnh đó, tổng giá trị phát hành TPDN đã giảm mạnh trong năm 2022 (269,5 nghìn tỷ VND so với 742,7 nghìn tỷ VND năm 2021). Năm 2023 tổng giá trị phát hành TPDN dự kiến sẽ còn giảm hơn nữa, khi lũy kế 5 tháng đầu năm mới đạt khoảng 32.000 tỷ đồng. Thanh khoản của cả hai thị trường này, đều giảm mạnh do niềm tin của khách hàng, nhà đầu tư cũng như nhà phát hành đều đang ở mức rất thấp.
Tuy nhiên, kinh tế 6 tháng đầu năm 2023, cũng đã hé lộ một số dấu hiệu tích cực:
Thứ nhất, lạm phát tiếp tục được kiểm soát nhờ những nỗ lực điều tiết của Chính phủ và giá nhiên liệu thế giới giảm mạnh. Các yếu tố chính làm tăng lạm phát là giá vật liệu xây dựng, thực phẩm, học phí, dịch vụ du lịch và điện sinh hoạt trong khi giá xăng dầu, gas và bưu chính viễn thông đã góp phần quan trọng trong kiềm chế CPI.
Thứ hai, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tiếp tục tăng, cho thấy nhu cầu đối với các hàng hóa cơ bản, tiêu dùng trong nhân dân vẫn tiếp tục tiến trình phục hồi sau đại dịch. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023 tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 chỉ tăng 9,3%).
Thứ ba, đầu tư từ ngân sách tăng so với cùng kỳ cho thấy nỗ lực đẩy mạnh đầu tư công của Chính phủ đã bước đầu phát huy hiệu quả. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2023 đầu tư từ ngân sách đạt 25,5% kế hoạch năm và tăng 18,4% so với cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 bằng 24,9% kế hoạch năm và tăng 10,8% so cùng kỳ năm 2021)
Thứ tư, tỷ giá ổn định, lãi suất bắt đầu xu hướng giảm. Trong bối cảnh các ngân hàng trung ương trên thế giới có xu hướng tăng hoặc giữ nguyên lãi suất thì NHNN đã 04 lần liên tiếp cắt giảm lãi suất điều hành: lãi suất tái cấp vốn giảm từ 6% xuống 4,5%, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 4,5% xuống mức 3%. Việc nới lỏng chính sách tiền tệ của NHNN nhằm hỗ trợ thanh khoản cho nền kinh tế, giải quyết phần nào cơn khát vốn và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Dự báo kinh tế: 2 kịch bản tăng trưởng GDP
Chúng tôi cho rằng tăng trưởng GDP cả năm 2023 khó đạt mục tiêu đề ra (6,5%).
(i) Kịch bản tích cực: GDP tăng trưởng từ 5,5 – 6,0%. Chính sách tài chính - tiền tệ trên thế giới có xu hướng bớt thặt chặt hơn, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế hồi phục mạnh vào nửa cuối năm. Trong nước, các gói đầu tư công được giải ngân mạnh mẽ, tạo động lực lan tỏa, kết hợp với đà hồi phục của dòng vốn khu vực tư nhân, FDI và sự gia tăng lực cầu quốc tế giai đoạn nửa sau của năm 2023.
(ii) Kịch bản tiêu cực: GDP tăng trưởng từ 5,0 – 5,5%. Các nền kinh tế lớn trên thế giới tiếp tục gặp khó khăn, tổng cầu trên thị trường quốc tế suy yếu. Sự dai dẳng của lạm phát toàn cầu khiến các ngân hàng trung ương trên thế giới duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt lâu hơn dự kiến. Trong nước, rủi ro vĩ mô gia tăng do chương trình hồi phục kinh tế triển khai chậm chạp so với kế hoạch đề ra.
Bên cạnh đó, lạm phát bình quân so cùng kỳ nhiều khả năng sẽ cao hơn năm 2022 nhưng vẫn đạt mục tiêu đề ra (không quá 4,5%).
Một số áp lực làm tăng lạm phát: (i) lộ trình điều chỉnh tăng theo giá thị trường các hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước quản lý; (ii) tác động vòng hai của việc tăng giá nguyên, nhiên liệu và lãi suất trong thời gian qua; (iii) các chương trình hỗ trợ phục hồi nếu được triển khai mạnh mẽ có thể làm gia tăng cung tiền; và (iv) lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức sẽ được điều chỉnh tăng từ ngày 1/7/2023.
Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, cũng xuất hiện nhiều yếu tố hỗ trợ việc ổn định lạm phát: (i) giá năng lượng khó có thể tăng mạnh như trong năm 2022; (ii) niềm tin của người tiêu dùng trên thế giới đang xuống thấp làm giảm bớt áp lực “nhập khẩu lạm phát”; (iii) từ 1/7/2023 đến 31/12/2023, thuế giá trị gia tăng sẽ được giảm từ 10% xuống 8%.
Theo Diễn đàn doanh nghiệp