Quyết liệt tháo gỡ khó khăn
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT), tính đến cuối tháng 6/2022, tổng số vốn các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã có quyết định giao chi tiết cho các dự án đủ thủ tục đầu tư, đủ điều kiện giải ngân trong năm 2022 là 485.924 tỷ đồng, đạt 93,8% số vốn Thủ tướng Chính phủ giao đầu năm.
Tuy nhiên, đến 30/6/2022, giải ngân vốn đầu tư công đạt 27,86% kế hoạch Thủ tướng giao (cùng kỳ năm 2021 đạt 29,02%); trong đó, 25 bộ, cơ quan trung ương có tỷ lệ giải ngân dưới 10% kế hoạch.
Thừa nhận con số tổng kết 6 tháng đầu năm về giải ngân vốn đầu tư công là chưa đạt kỳ vọng, người đứng đầu Bộ KH-ĐT cho biết, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập 6 Tổ công tác để đi kiểm tra, đốc thúc việc phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công tại các bộ ngành, địa phương có tỷ lệ phân bổ, giải ngân vốn còn thấp; đồng thời, liên tục có các giải pháp quyết liệt nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy giải ngân…
Và khâu khó khăn nhất vẫn là việc giải phóng mặt bằng, đây vấn đề không mới nhưng vẫn rất nan giải trong việc thực hiện các dự án ở hầu hết các địa phương. Đơn cử tại Hà Nội, trong số 140 dự án cấp Thành phố đã được giao kế hoạch vốn năm 2022 từ đầu năm 2022, có tới 63 dự án gặp khó khăn trong giải phóng mặt bằng. Theo phản ánh của các chủ đầu tư, trọng tâm là khó khăn trong việc xác định nguồn gốc đất, giá đất, quỹ nhà tái định cư, người dân chưa đồng thuận với phương án bồi thường…
Bên cạnh đó, nhiều địa phương cho biết vẫn chịu tác động mạnh của dịch COVID-19, đặc biệt là trong quý I/2022. Ngoài ra, các biến động từ bên ngoài tác động đến nền kinh tế dẫn đến giá nguyên, nhiên, vật liệu, phí vận chuyển tăng cao; khó huy động chuyên gia, lao động chất lượng cao, máy móc, thiết bị nhập khẩu phục vụ dự án. Nhiều nhà thầu có tâm lý thi công cầm chừng để chờ hướng dẫn điều chỉnh, chính sách bù giá vật liệu xây dựng…
Lý giải về nguyên nhân phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công trong 6 tháng đầu năm còn khiêm tốn. Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, để đánh giá tốc độ giải ngân cần nhìn nhận một cách toàn diện và trong cả một giai đoạn.
Từ thực tế tỷ lệ giải ngân giai đoạn 2017 - 2022, 5 tháng đầu thường đạt khoảng 22 - 26% kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ giao; trong đó thấp nhất là năm 2021 đạt 22,12% (102,03 nghìn tỷ đồng), cao nhất là năm 2019 đạt 26,4% (96,89 nghìn tỷ đồng). Tuy nhiên, giải ngân cả năm thì có sự biến động mạnh, trong khoảng 76,89% đến 96,47%.
Thời gian này tỷ lệ giải ngân năm 2018 là thấp nhất, đạt 76,89% (303,1 nghìn tỷ đồng), năm 2019 thấp thứ hai đạt 78,83% (325,1 nghìn tỷ đồng) mặc dù chính năm này tỷ lệ giải ngân 5 tháng đạt cao nhất trong giai đoạn 2017 - 2022.
Năm có tỷ lệ giải ngân cao nhất là năm 2020 đạt 96,47% (450,2 nghìn tỷ đồng), là năm cuối kỳ trung hạn giai đoạn 2016 - 2020; năm cao thứ hai là 2021 đạt 95,7% (417,7 nghìn tỷ đồng) năm tiếp tục thực hiện hoàn thành nhiều dự án của giai đoạn 2016 - 2020 và chuẩn bị đầu tư cho 2021 - 2025.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, có thể thấy rõ là tỷ lệ giải ngân thường tăng dần vào thời điểm cuối năm và có xu hướng trở thành quy luật.
Vì thế, theo Bộ trưởng, nhận định giải ngân nhanh hay chậm cần xem xét cả đến yếu tố này. Việc giải ngân thấp ở các tháng đầu năm cũng chưa khẳng định được tỷ lệ giải ngân cả năm là sẽ thấp, điển hình là các năm 2020 - 2021 vừa qua.
Ông Đỗ Thành Trung, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân, Bộ KH-ĐT cho biết thêm, khi có sự giao thoa giữa hai kỳ kế hoạch, chiến lược thì có sự chậm trễ trong xác định, xây dựng, chuẩn bị dự án. Năm 2022 là năm đầu tiên thực hiện các dự án trong kỳ trung hạn 2021 - 2025, các dự án để hoàn thiện thủ tục cần thời gian thông thường 6 - 8 tháng, kể cả dự án thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội cũng mất 5 - 6 tháng.
Cần các giải pháp căn cơ
Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, việc thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công là một nhiệm vụ chính trị rất quan trọng, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế còn đang khó khăn và thực thi các giải pháp để phục hồi kinh tế. Xác định rõ điều này, thời gian qua, Chính phủ đã quyết liệt thực thi nhiều giải pháp để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công.
Tuy nhiên, để đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đầu tư công, không thể chỉ quan tâm giải quyết trước mắt. mà phải được giải quyết căn cơ, lâu dài, thông qua việc tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, thay đổi cách tiếp cận, quản lý, sử dụng nguồn vốn này phù hợp với yêu cầu phát triển.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng cũng chỉ ra một yếu tố rất quan trọng, đó là phải chuẩn bị dự án từ sớm, từ xa, chuẩn bị dự án thật tốt, nghiên cứu và bổ sung quy định về một số hành động trước được thực hiện trong quá trình chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án để bảo đảm tính khả thi, tính sẵn sàng, nhất là về mặt bằng, để nếu được phân bổ vốn có thể đưa vào thực hiện, giải ngân sớm.
Liên quan đến vấn đề này, Chính phủ vẫn đang tiếp tục nghiên cứu để báo cáo Quốc hội cho phép tách giải phóng mặt bằng thành một dự án độc lập, được thực hiện với các quy định đặc thù, phù hợp với điều kiện thực tế, tạo thuận lợi hơn cho công tác chuẩn bị, nâng cao tính sẵn sàng và triển khai dự án.
Ông Đỗ Thành Trung cho biết, để kỳ vọng có sự thay đổi lớn về giải ngân đầu tư công cần xử lý rất nhiều vướng mắc, vì mỗi dự án đầu tư công không chỉ bị điều chỉnh bởi Luật Đầu tư công mà còn bị chi phối bởi nhiều luật và phải thực hiện tuần tự từng thủ tục trong từng giai đoạn dự án.
Theo ông Đoàn Hồng Quang, chuyên gia kinh tế của Ngân hàng Thế giới, những giải pháp ngắn hạn đã có nhiều, nhưng chỉ thay đổi tạm thời. Vì thế, cần cuộc đại phẫu thực sự cho vấn đề này. Bộ KH-ĐT có thể chủ trì một nghiên cứu toàn diện xây dựng lộ trình xử lý điểm nghẽn, tạo thay đổi về chất trong giải ngân đầu tư công, đặc biệt trong bối cảnh muốn tăng cường giải pháp tài khóa để hỗ trợ nền kinh tế.
Về phía địa phương, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước yêu cầu các đơn vị, địa phương lấy kết quả giải ngân vốn đầu tư công là một trong những căn cứ quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ năm 2022 của tổ chức, cá nhân được phân công theo dõi và người đứng đầu các cấp chính quyền. Cùng đó, thay thế kịp thời những cán bộ, công chức, viên chức yếu kém về năng lực, trì trệ, gây nhũng nhiễu, tiêu cực, kiên quyết xử lý các hành vi tiêu cực trong quản lý đầu tư công.