Tuần hoàn nông nghiệp là tất yếu
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến mới đây đã nhấn mạnh, phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp là yêu cầu, xu hướng tất yếu. Đây chính là giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững và hiệu quả nhằm triển khai các cam kết quốc tế, nhiệm vụ quốc gia và ngành về phát triển xanh và bền vững.
Tác động khí hậu, khan hiếm nguồn tài nguyên thiên nhiên, suy thoái môi trường, dịch bệnh khiến các quốc gia phải thay đổi tư duy phát triển và sản xuất theo nguyên lý cơ bản “mọi thứ đều là đầu vào đối với thứ khác”, ông Tiến phân tích tại hội nghị đối thoại chính sách về kinh tế tuần hoàn mới đây.
Đồng quan điểm, bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện thường trú của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam, nhận định, kinh tế tuần hoàn ngày càng được ưa chuộng trong nông nghiệp vì nhiều lợi ích, trước hết vì các mục tiêu khí hậu.
Theo đánh giá của Bộ Tài nguyên và môi trường, sản xuất lúa gạo chiếm gần một nửa lượng phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam và 75% tổng lượng phát thải khí methane.
Nguyên nhân chủ yếu là tưới tiêu, bón phân, sử dụng năng lượng không hiệu quả và quản lý không tốt phụ phẩm lúa gạo và chăn nuôi.
Theo đại diện UNDP, xét theo quy mô và tầm quan trọng của ngành nông nghiệp Việt Nam, bao gồm cả tác động môi trường, đóng góp vào khí thải nhà kính và tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu, việc tận dụng tiềm năng của các mô hình kinh tế tuần hoàn trên quy mô lớn là hoàn toàn hợp lý.
Hướng đi cho nông nghiệp tuần hoàn
Bên cạnh đó, nông nghiệp tuần hoàn giúp nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế.
Nông nghiệp đóng vai trò thiết yếu đối với sự phát triển kinh tế, an ninh lương thực và sinh kế của Việt Nam. Giá trị gia tăng của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt mức tăng trưởng ấn tượng, kim ngạch xuất khẩu cũng đạt mức kỷ lục.
Tổng lượng phế, phụ phẩm nông nghiệp từ các loại cây trồng lương thực, công nghiệp tại Việt Nam ước tính đạt gần 100 triệu tấn mỗi năm, trong đó, riêng rơm rạ từ sản xuất lúa gạo chiếm 52 triệu tấn.
Con số này cho thấy được tiềm năng to lớn để tái chế hiệu quả các nguồn tài nguyên trong sản xuất lúa gạo, góp phần tạo ra các sản phẩm có giá trị kinh tế như nhiên liệu sinh học, phân bón hữu cơ và nguyên liệu sinh khối.
Không chỉ vậy, nông nghiệp tuần hoàn còn giúp bảo vệ sức khỏe con người và hệ sinh thái.
Ước tính, ngành chăn nuôi Việt Nam tạo ra gần 72 triệu tấn chất thải rắn và hơn 76 triệu tấn chất thải lỏng mỗi năm. Nếu không được xử lý, những chất thải này sẽ gây ô nhiễm nguồn nước, đất đai, gây ảnh hưởng đến chất lượng nông sản.
Bên cạnh đó, việc đốt chất thải và phế phẩm nông nghiệp, đặc biệt vào mùa thu hoạch, càng làm gia tăng tình trạng ô nhiễm không khí tại địa phương, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, đặc biệt là những đối tượng dễ bị tổn thương, trẻ em và người cao tuổi.
Bà Ramla Khalidi nhấn mạnh, thúc đẩy thu hồi tài nguyên từ chất thải nông nghiệp sẽ góp phần tái sử dụng, sản xuất nguyên liệu, protein, năng lượng và chất dinh dưỡng, đồng thời, tăng cường chất lượng thực phẩm và khả năng chống chịu của các hộ sản xuất nhỏ trước những tác động ngày càng tăng của khí hậu.
Các mô hình kinh tế tuần hoàn còn giúp cải thiện sức khỏe của hệ sinh thái bằng cách phục hồi đất và hạn chế rò rỉ phân bón tổng hợp ra nguồn nước.
Con đường cho nông nghiệp tuần hoàn
Để thúc đẩy nông nghiệp tuần hoàn, bà Ramla Khalidi đề xuất, trước hết, cần phải đẩy mạnh hợp tác với các đối tác để ưu tiên đánh giá và phổ biến rộng rãi các mô hình kinh tế tuần hoàn có tiềm năng, thân thiện với khí hậu và môi trường.
Điều này bao gồm việc đẩy mạnh hợp tác để xây dựng và thực hiện các chính sách kinh tế tuần hoàn, phân bổ nguồn lực hợp lý để chuyển đổi chất thải thành tài nguyên, đồng thời, tăng cường thu thập dữ liệu.
Bên cạnh đó, “tất cả chúng ta đều có thể đóng góp vào việc thúc đẩy việc xây dựng thị trường cho các sản phẩm kinh tế tuần hoàn”, bà phân tích.
Nhận thức về sự cần thiết chuyển đổi sang phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn hiện vẫn còn mơ hồ. Ảnh: Hoàng Anh
Đối với sản xuất nông nghiệp, có thể dựa vào khoa học, công nghệ và các thí điểm thành công đã có ở Việt Nam để thiết kế các hệ thống canh tác sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên ở cấp độ trang trại và dọc theo toàn bộ chuỗi cung ứng.
Quá trình này bao gồm sự tham gia của tất cả các bên như chế biến, vận chuyển, bán lẻ, qua đó, thúc đẩy sự cung ứng có trách nhiệm từ trang trại đến bàn ăn.
Về phần người tiêu dùng, cần triển khai hiệu quả các chiến dịch truyền thông và nâng cao nhận thức hiệu quả để khuyến khích người tiêu dùng lựa chọn các sản phẩm thân thiện với môi trường.
Cuối cùng, bà Ramla Khalidi nhấn mạnh, cần có bước đột phá nhằm tăng khả năng tiếp cận các nguồn tài chính cho nông dân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), giúp họ chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn thành công.
Hợp tác công – tư cũng là mô hình sẽ mang lại hiệu quả cho Việt Nam trong hành trình tiến tới nông nghiệp tuần hoàn, theo ông Nguyễn Đình Công, chuyên gia của Tổ chức Lương thực và nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) về quản lý đất và hệ thống lương thực thực phẩm.
Trong đó, khu vực công sẽ có vai trò đảm bảo môi trường về chính sách, quy định và kinh doanh có tính hỗ trợ cho nông nghiệp tuần hoàn; giảm rủi ro và chi phí giao dịch, tạo dựng niềm tin giữa các bên trong các chuỗi giá trị nông sản.
Bên cạnh đó, khu vực này cũng sẽ cung cấp nghiên cứu, mô hình kinh tế tuần hoàn và dịch vụ khuyến nông; đầu tư vào cơ sở hạ tầng cơ bản.
Điều này sẽ giúp Việt Nam đạt được tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo hiệu quả và bền vững.
Ông Công phân tích thêm, khu vực tư nhân sẽ tiếp cận thị trường, sản xuất hàng hóa, đầu tư vào cơ sở chế biến, kho bãi cũng như phối hợp theo các chuỗi giá trị.
Tuy vậy, quá trình này cũng không hề dễ dàng.
Theo Viện Chính sách chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, nhận thức về sự cần thiết chuyển đổi sang phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn của người nông dân lẫn hợp tác xã, doanh nghiệp và người tiêu dùng còn mơ hồ, chưa đầy đủ.
Khung chính sách về phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn chưa được hoàn thiện, nằm rải rác ở các luật, nghị định khác nhau, thiếu hướng dẫn và thiếu quy định, tiêu chuẩn về kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp.
Cùng với đó, tỷ lệ thu gom, xử lý phụ phẩm nông nghiệp tạo giá trị gia tăng còn thấp.
Ngoài ra, sự gắn kết giữa các tác nhân trong các mô hình kinh tế tuần hoàn còn yếu và chưa hình thành được hệ sinh thái kinh tế tuần hoàn trong một lĩnh vực cụ thể, Viện nhấn mạnh.
Theo The Leader