Tình hình chính trị và kinh tế thế giới trong thời gian qua đã, đang có nhiều biến động phức tạp, khó dự báo.
Hiện nay, diễn biến xung đột giữa Nga và Ukraine kéo dài và xuất hiện thêm điểm nóng xung đột mới ở dải Gaza giữa Israel và Hamas căng thẳng hết sức nguy hiểm, diễn biến khó lường và có nguy cơ đẩy giá nguyên liệu lên cao;
Tổng cầu của thị trường thế giới tiếp tục suy giảm mạnh, các hoạt động sản xuất - kinh doanh và tiêu dùng tăng trưởng thấp, và lãi suất vẫn duy trì ở mức khá cao, dẫn đến việc hạn chế nhu cầu tiêu dùng - đầu tư của người dân và các doanh nghiệp trên phạm vi toàn cầu;
Thị trường tài chính - tiền tệ toàn cầu vẫn đang đối mặt với rất nhiều rủi ro, từ sau vụ đổ vỡ của một số ngân hàng lớn của Mỹ và Thụy Sỹ vừa qua; đi đôi với việc gia tăng cao nguy cơ vỡ nợ công của 1 số quốc gia kém phát triển;
Nguy cơ các yếu tố rủi ro an ninh phi truyền thống có xu hướng ngày càng gia tăng và cực đoan hơn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và cuộc sống của người dân;
Sự cạnh tranh và xung đột tiềm tàng địa chính trị giữa các nước lớn, đặc biệt là Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra ngày càng gay gắt, phức tạp, đã ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phục hồi và phát triển nền kinh tế thế giới sau đại dịch Covid - 19;
Các nền kinh tế lớn như EU, Nhật Bản và Trung Quốc tốc độ tăng trưởng chậm hơn, so với các dự báo của các tổ chức quốc tế trước đây; Trong khi đó kinh tế Mỹ đã tăng trưởng vượt dự kiến. Bộ Thương mại Mỹ cho biết GDP tăng 4,9% trong quý 3 năm 2023 (cao hơn dự báo tăng 4,7%). Đây là mức tăng trưởng mạnh nhất kể từ quý IV/2021, bất chấp lãi suất tăng cao kéo dài cùng với nhiều “cơn gió ngược”. Chủ tịch Jerome Powell cho biết Fed sẵn sàng sẽ tăng một lần nữa (lần thứ 12) nếu nền kinh tế Mỹ nóng lên.
Theo dự báo của các tổ chức quốc tế WB, IMF, OECD … kinh tế toàn cầu cả năm 2023 sẽ tăng trưởng khoảng 2,5 - 3%; lạm phát (CPI) khoảng 5,5 -6% năm 2023; thương mại quốc tế tăng trưởng khoảng 1% và đầu tư toàn cầu (FDI) sẽ giảm nhẹ khoảng 5%; đồng thời dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2024 sẽ thấp hơn năm 2023.
Kinh tế Việt Nam 9 tháng năm 2023 và triển vọng năm 2024
Chính sách tiền tệ đã bắt đầu phát huy hiệu quả với hệ thống tín dụng sẵn sàng cung ứng vốn cho nền kinh tế. Ảnh minh họa: VNEconomy
Tăng trưởng GDP của Việt Nam cũng theo xu hướng giảm tốc toàn cầu, giảm còn 3,3% trong quý 1, quý 2 là 4,14% trong quý 2 và dự báo cả năm 2023 là khoảng 5%. Nhiều tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2024 là từ 6,0 – 6,5%.
Tuy nhiên, bức tranh kinh tế trong 9 tháng năm 2023 có nhiều điểm sáng và ghi nhận môt số kết quả tích cực, đó là:
Đầu tư công và các hoạt động bán lẻ ở thị trường nội địa có nhiều dấu hiệu khả quan, đây là hai động lực rất quan trọng đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia;
Lạm phát cơ bản được kiểm soát tốt dù vẫn đối diện với áp lực gia tăng trong thời gian tới; CPI bình quân trong 9 tháng xoay quanh mức 3,0%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra;
Mặt bằng lãi suất giảm rõ rệt và hệ thống ngân hàng đảm bảo khả năng sẵn sàng cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế;
Cùng với đó, các hoạt động đối ngoại, nâng cấp hình thức hợp tác đối tác với Hoa Kỳ và một số quốc gia phát triển, và hội nhập kinh tế tiếp tục đạt được nhiều kết quả nhất định.
Những thách thức lớn trong ngắn hạn và trung hạn
Trong thời gian qua, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt, chủ động và sát sao các Bộ, ngành và địa phương tích cực tháo gỡ các khó khăn, nút thắt cho nền kinh tế và các doanh nghiệp; đồng thời đã có nhiều chính sách, giải pháp khả thi kịp thời nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế. Dự báo tăng trưởng GDP cả năm đạt trên 5%. Mặc dù, tăng trưởng GDP năm 2023 thấp và có thể không đạt chỉ tiêu Quốc hội đã đề ra, nhưng vẫn cao hơn so với một số quốc gia trong khu vực và sự tăng trưởng chung của nền kinh tế toàn cầu.
Dự báo trong ngắn hạn và trung hạn (2023 - 2024) Việt Nam sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức đan xen cơ hội phát triển và đang chịu tác động không thuận lợi từ môi trường chính trị và kinh tế thế giới, và sự yếu kém, bất cập nội tại của nền kinh tế đất nước đã tích tụ, tiềm ẩn trong nhiều năm trước đây nhưng chậm được xử lý, giải quyết kịp thời và hiệu quả.
Thứ nhất, trong điều kiện kinh tế toàn cầu có dấu hiệu suy thoái, tổng cầu nói chung của thế giới suy giảm và các thị trường xuất khẩu chính của nước ta như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc tiếp tục có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại, dẫn đến khả năng lượng cầu nhập khẩu tiếp tục có xu hướng giảm đi và chậm lại. Từ cú sốc của phía cầu, điều này dẫn đến hệ quả có thể Việt Nam có những tác động bất lợi đến khả năng xuất khẩu, điều này có thể làm cho cán cân tài khoản vãng lai xấu đi và một số lĩnh vực xuất khẩu quan trọng, phải trải qua thời kỳ sản xuất dưới mức tiềm năng, do thiếu các đơn đặt hàng từ các các trị trường xuất khẩu truyền thống trọng điểm.
Thứ hai, Đồng tiền Việt Nam giảm giá, áp lực lớn tới nền kinh tế Việt Nam. Có thể thấy, mỗi khi nền kinh tế Mỹ gặp khó khăn thì Fed thường đẩy một lượng tiền USD lớn ra thị trường và đó cũng là xu hướng hành động chung của nhiều quốc gia khác. Trong thời gian qua, để thực hiện mục tiêu nhanh chóng phục hồi nền kinh tế sau đại dịch Covid -19, Mỹ đã bơm một khối lượng lớn tiền, thông qua chính sách nới lỏng định lượng (EQ). Ngược lại, trong điều kiện thế giới xuất hiện các điểm nóng xung đột chính trị, quân sự và lạm phát tăng cao thì các nước buộc phải hút tiền về để kiểm soát lạm phát, tỷ giá và có thể tiếp tục thực hiện thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ.
Trong khi đó, hiện nay Việt Nam không còn nhiều “room” cho chính sách tiền tệ nới lỏng và tỷ giá USD/VND đang lên cao, chưa có tín hiệu đi xuống, mặc dù trong 5 tuần gần đây NHNH đã có động thái hút mạnh tiền trên thị trường mở. Nếu NHNN tiếp tục đẩy mạnh hút tiền về để kiểm soát tỷ giá và lạm phát thì lãi suất thương mại sẽ tăng trở lại. Điều này có thể tác động tiêu cực đến quá trình phục hồi nền kinh tế trong nước và gây rủi ro cho các doanh nghiệp vay vốn.
Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất gần đây tăng nhanh trở lại (có lúc lãi suất qua đêm lên 2,84/năm) và tiền không còn rẻ trên thị trường 2. Điều này đã gây khó khăn cho Việt Nam trong thực thi giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, mặc dù hiện nay tăng trưởng tín dụng thấp và nền kinh tế khó hấp thụ vốn, bởi các ngành kinh tế chủ lực như bất động sản và sản xuất xuất khẩu đang gặp nhiều khó khăn và sản xuất đình trệ.
Thứ ba, tình hình thị trường tài chính với 3 kênh dẫn vốn quan trọng hàng đầu cho cả nền kinh tế cũng như hệ thống doanh nghiệp như nguồn tín dụng ngân hàng, thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã, đang có nhiều vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết để có thể đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội trong ngắn hạn và trung hạn.
Trong điều kiện thị trường trái phiếu đang gặp nhiều khó khăn, trầm lắng và thị trường chứng khoán phát triển thiếu ổn định và chưa được nâng hạng từ thị trường cận biên lên thành thị trường mới nổi để tăng khả năng thu hút các dòng vốn đầu tư lớn, tiềm năng của các nhà đầu tư quốc tế.
Tình hình nợ xấu của các ngân hàng thương mại trong thời gian gần đây, có dấu hiệu tăng cao và quá trình tái cấu trúc, xử lý một số ngân hàng yếu kém theo chỉ đạo của Chính phủ gặp nhiều khó khăn, kéo dài. Trong khi đó, nền kinh tế đang trong tình trạng “khó hấp thụ vốn” và nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp giảm sút dẫn đến tình trạng hệ thống ngân hàng thừa tiền, lãi suất giảm dần nhưng tăng trưởng tín dụng rất thấp so với nhiều năm trước đây.
Thứ tư, nền kinh tế Việt Nam cũng phải đối diện với rủi ro lạm phát cao. Dù các đợt tăng lãi suất quyết liệt của các Ngân hàng trung ương các nền kinh tế lớn đã góp phần giảm áp lực tăng giá trên toàn cầu. Tuy nhiên, với sự bất ổn của tình hình chính trị toàn cầu hiện nay có thể sẽ đẩy giá dầu, nguyên liệu và hàng hóa tăng cao; đồng thời tỷ giá USD và VND biến động lớn sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động xuất nhập khẩu, và các chính sách thắt chặt tiền tệ cũng có thể ảnh hưởng lượng kiều hối.
Thứ năm, nền kinh tế Việt Nam đã, đang bộc lộ nhiều điểm yếu lớn. Đó là, nền kinh tế có độ mở tương đối lớn, dễ bị ảnh hưởng bởi các cú sốc tiêu cực từ môi trường kinh tế quốc tế; đồng thời phụ thuộc rất lớn vào hoạt động xuất nhập khẩu để tăng trưởng kinh tế. Trong đó, nhập khẩu phụ thuộc nhiều và tập trung vào thị trường Trung Quốc (hơn 115 tỷ USD năm 2022 hay gần 35% tổng kim ngạnh nhập khẩu và nhập siêu cao); hoạt động xuất khẩu phụ thuộc rất lớn thị trường Hoa Kỳ (hơn 100 tỷ USD năm 2022 hay hơn 30% tổng kim ngạch xuất khẩu và suất siêu hơn lớn), có thể gây ra nhiều hệ lụy bất lợi trong quan hệ thương mại hai nước, từ việc Mỹ tăng thuế quan hoặc sẽ đưa ra các cách thức phòng vệ khác để hạn chế nhập khẩu từ Việt Nam).
Thứ sáu, Chính phủ cần phải quyết liệt đổi mới toàn diện thể chế kinh tế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư quốc gia. Chú trọng hơn nữa, thực hiện quyết liệt và hiệu quả hơn nữa về công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực và lãng phí trong đầu tư công. Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn, thách thức và nguồn lực đất nước còn rất hạn chế thì công tác tiết kiệm và đầu tư hiệu quả có ý nghĩa hết sức cần thiết, quan trọng. Việc đầu tư một số đại dự án lớn kém hiệu quả trong thời gian qua, đã để lại cho chúng ta rất nhiều bài học quý giá.
Chúng ta cần phải cầu thị tiếp tục phân tích, đánh giá đầy đủ nguyên nhân và quan trọng hơn cả là tổng kết rút kinh nghiệm sâu sắc về chính sách đầu tư công mang nặng tính dàn trải, dự án thiếu khả thi, chất lượng công nghệ lạc hậu không phù hợp và đội vốn đầu tư lớn; trong quá trình đầu tư đã để xảy ra tình trạng tiêu cực, tham nhũng và lãng phí lớn các nguồn lực đầu tư, trong khi đó điều kiện ngân sách quốc gia còn rất hạn chế và phải đi vay mượn nước ngoài; đặc biệt là các dự án đầu tư có tính chất trọng điểm này đã không phát huy được vai trò thúc đẩy, lan toả và tạo động lực phát triển cho từng ngành kinh tế quan trọng và các địa bàn vùng kinh tế trọng điểm quốc gia.
Thứ bảy, hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ, đường sắt, hàng không và logistics của Việt Nam hiện nay nhìn chung còn nhiều yếu kém, hạn chế. Hệ thống mạng lưới đường cao tốc xuyên quốc gia chưa được đầu tư đúng mức và phát triển thiếu đồng bộ, hoặc khả năng kết nối hạ tầng giao thông liên kết giữa các vùng kinh tế trọng điểm kinh tế quốc gia với nhau còn nhiều hạn chế, bất cập; đặc biệt là chất lượng cơ sở hạ tầng giao thông ở hai đô thị lớn Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh đã, đang có nhiều điểm nghẽn, nút thắt và cản trở lớn đến khả năng bứt phá phát triển, thực hiện vai trò động lực dẫn dắt phát triển kinh tế cả vùng và tăng trưởng kinh tế cao của các địa phương.
Tận dụng tiền năng, nắm bắt thời cơ bứt phá
Mặc dù trong bối cảnh tình hình chính trị và kinh tế thế giới đang diễn ra hết sức phức tạp; đồng thời nội tại nền kinh tế Việt Nam cũng đang ẩn chứa nhiều yếu tố bất cập và yếu kém trong ngắn hạn và trung hạn (2023- 2025); Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng đất nước ta hiện nay, đang chứa đựng nhiều yếu tố “thiên thời, địa lợi và nhân hoà”, và được xem là cơ hội lịch sử lớn, để chúng ta có thể bứt phá phát triển mạnh mẽ trong dài hạn.
Ảnh minh họa: VNEConomy
Trong ngắn và trung hạn, để vượt các thách thức, kỳ vọng Chính phủ tiếp tục ưu tiên hỗ trợ nền kinh tế và hướng đến mục tiêu thúc đẩy nhanh quá trình phục hồi nền kinh tế sau đại dịch Covid -19 vừa qua, và tạo nhiều động lực mới cho quá trình tăng trưởng kinh tế quốc gia. Ảnh minh họa: Quốc Tuấn
Vì vậy, Việt Nam cần phải có chiến lược phù hợp thúc đẩy tăng trưởng, trong môi trường kinh tế toàn cầu biến động phức tạp và khó dự báo như hiện nay; đồng thời tiếp tục kiến tạo những động lực lực mới, tiền đề và điều kiện vững chắc nhằm tạo cơ sở nền móng cho việc đón đầu cơ hội, bứt phá và phát triển bền vững cho giai đoạn sau năm 2025 trở đi.
Thứ nhất, Chính phủ cần tiếp tục ưu tiên thực hiện hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế trọng điểm, giải pháp chính sách tháo gỡ khó khăn, nút thắt và các điểm nghẽn hiện nay ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng, gữi vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, giảm lãi suất cho vay, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế đất nước.
Đồng thời, tập trung thực hiện các giải pháp thúc đẩy mạnh mẽ các động lực, xung lực tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và trung hạn về đầu tư, tiêu dùng nội địa và xuất khẩu; đặc biệt chú trọng kích cầu phát triển thị trường trong nước trong điều kiện các thị trường xuất khẩu truyền thống giảm cầu và hạn chế nhập khẩu tiêu dùng. Phấn đấu mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023 đạt từ 5,0- 5,5%, năm 2024 từ 6,0 -6,5% và năm 2025 từ 6,5 – 7,5%.
Thứ hai, Chính phủ chỉ đạo điều hành chính sách tiền tệ cần dựa trên các mục tiêu phát triển tổng thể nền kinh tế trong trung hạn và tầm nhìn dài hạn, theo hướng giảm lãi suất, kìm chế lạm phát, đảm bảo ổn định tiền tệ, ngoại hối và đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng thương mại; đồng thời chính sách tài khóa cần ưu tiên hỗ trợ nền kinh tế và hướng đến mục tiêu thúc đẩy nhanh quá trình phục hồi nền kinh tế sau đại dịch Covid -19 vừa qua, và tạo nhiều động lực mới cho quá trình tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Thứ ba, Chính phủ cần tiếp tục quan tâm chỉ đạo sát sao, quyết liệt và đồng bộ về hoàn thiện thể chế kinh tế, hệ thống pháp luật và chính sách quản lý nhà nước nhằm thúc đẩy xây dựng thị trường tài chính quốc gia, vận hành phù hợp với các thông lệ, tiêu chuẩn và liên thông với thị trường tài chính quốc tế; đồng thời gắn với yêu cầu đảm bảo phát triển đúng hướng, an toàn, lành mạnh, minh bạch, ổn định và phát triển bền vững. Trong ngắn hạn, trong điều kiện thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn, phát triển chưa ổn định và phục hồi rõ rệt.
Vì vậy, chúng ta cần chú trọng ưu tiên thực hiện các giải pháp khả thi, hiệu quả để gia tăng khả năng cung ứng nguồn vốn tín dụng từ kênh ngân hàng thương mại cho nền kinh tế (gắn với việc tăng khả năng hấp thụ vốn) và hệ thống doanh nghiệp; đi đôi với việc thực hiện quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, điểm nghẽn về các quy định pháp luật, thủ tục hành chính và chính sách thuế cho các doanh nghiệp nhằm góp phần sớm phục hồi nền kinh tế sau thời gian đại dịch, tiếp tục phát triển ổn định và bền vững.
Thứ tư, Việt Nam cần đẩy nhanh việc hình thành và phát triển các mô hình kinh tế mới nhằm tạo đột phá mạnh mẽ cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững. Chúng ta cần phải bắt nhịp kịp với cuộc cách mạng lần thứ 4 nhằm không bỏ lỡ cơ hội của chuyến tàu lịch sử quan trọng này của nhân loại; và coi đây là thời cơ, vận hội lớn nhất và tốt nhất để có thể bứt phá và sớm rút ngắn khoảng cách trình độ phát triển nền kinh tế với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Hai nền kinh tế hàng đầu thế giới là Hoa Kỳ và Trung Quốc đều có tốc độ tăng trưởng kinh tế số nhanh và có tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng GDP quốc gia cao (với khoảng 30 - 40% GDP quốc gia). Kinh tế số và kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn cũng đã được định hình và phát triển sớm ở nhiều quốc gia. Tuy nhiên, các mô hình kinh tế này, được ứng dụng mạnh mẽ và phát triển hiệu quả, nhanh nhờ có sự bứt phá của công nghệ số, công nghệ sinh học và cuộc cách mạnh công nghiệp lần thứ 4. Trên thực tế nhiều quốc gia và nhiều tập đoàn kinh tế lớn, đã tích hợp đồng thời các mô hình kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh và chuỗi cung ứng thương mại, dịch vụ và đã thành công bước đầu. Đồng thời, với việc thúc đẩy quá trình đổi mới sáng tạo và hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia (hiện nay Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ ba của Đông Nam Á).
Thứ năm, Việt Nam là một quốc gia có nhiều điều kiện, tiềm năng và lợi thế để phát triển bền vững ngành nông nghiệp. Trong thời gian qua, đất nước chúng ta đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn về nông nghiệp; đồng thời đã, đang giữ các vị thế trong nhóm các nước đứng đầu thế giới về sản lượng xuất khẩu của một số mặt hàng lúa gạo, nông sản và hải sản. Tuy nhiên, để có thể tiếp tục duy trì sản lượng, nâng cao hiệu quả đầu tư, tính cạnh tranh về chất lượng và giá thành sản phẩm; gia tăng giá trị các hàng hoá xuất khẩu và chủ động tạo cơ hội tham gia sâu vào chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu; ngành nông nghiệp cần phải chú trọng hơn nữa về đầu tư phát triển ngành theo chiều sâu, ứng dụng các thành tựu công nghệ sinh học tiên tiến vào sản xuất, phát triển công nghiệp chế biến; đồng thời nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh của ngành trong khu vực và thế giới.
Thứ sáu, chú trọng đón đầu cơ hội thúc đẩy phát triển nhanh và mạnh mẽ ngành logistics. Việt Nam đang được đánh giá có nhiều tiềm năng, lợi thế và cơ hội lớn nhờ vị trí địa lý thuận lợi của quốc gia, để thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế đất nước trong thời gian tới. Theo bảng xếp hạng Emerging Markets Index vừa công bố của nhà cung cấp dịch vụ vận tải và hậu cần kho vận Agility, Việt Nam lọt vào top 10/50 thị trường logistics mới nổi trên thế giới, tăng 1 bậc so với vị trí số 11 được ghi nhận đầu năm 2023.
Theo đánh giá của tổ chức này, tốc độ phát triển hàng năm của ngành logistics Việt Nam đạt từ 14 - 16%, quy mô 40 -42 tỷ USD/năm. WB xếp hạng Việt Nam hiện nay đứng thứ 64/160 nước về mức độ phát triển logistics và đứng thứ 4 khu vực ASEAN, sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Theo kết quả khảo sát của Cusman & Wakefiel năm 2022, có hơn 200 đại diện cấp cao từ các công ty hàng đầu thế giới đã chọn Việt Nam là điểm đến đầu tư ưu tiên nhất và thứ hai, trong nhóm thị trường logostics mới nổi.
Dự báo kinh tế đất nước sẽ tiếp tục được phục hồi và lấy lại đà tăng trưởng cao trong trung và dài hạn. Khi đó ngành logistics có vị trí, vai trò và tiềm năng phát triển to lớn. Với lợi thế là quốc gia có hơn 3000 km đường biển và có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, chúng ta phải xác định logistics là ngành kinh tế mũi nhọn để tập trung phát triển, đón đầu cơ hội thị trường toàn cầu được dự báo doanh thu ước đạt là 30.000 tỷ USD và tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Thứ bảy, Việt Nam cần phải chủ động sẵn sàng chuẩn bị đảm bảo các yêu cầu, điều kiện, cơ sở nguồn lực và tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn có tính cạnh tranh cao để có thể tận dụng cơ hội thu hút làn sóng đầu tư nước ngoài (FDI) lần thứ tư. Tuyên bố chung của Hoa kỳ và Việt Nam vừa qua, đã khẳng định hai bên sẽ đẩy mạnh hợp tác sâu rộng về khoa học - công nghệ, Mỹ sẽ hỗ trợ các chương trình nghiên cứu sáng tạo, ứng dụng công nghệ và hệ sinh thái khởi nghiệp của Việt Nam; đặc biệt là một số ngành công nghiệp mũi nhọn quan trọng, ngành công nghiệp bán dẫn và công nghệ cao khác, mà Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển và lợi thế cạnh cao.
Ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn, thu hút các dòng vốn đầu tư từ Hoa kỳ và một số quốc gia tiên tiến khác. Điều kiện tiên quyết là Việt Nam phải đảm bảo đầu tư phát triển và chuẩn bị sẵn sàng nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành, lĩnh vực kinh tế nói trên trong thời gian tới. Chúng ta có thể tham khảo bài học thành công của Nhật Bản và Đài Loan về vấn đề này.
Thứ tám, Việt Nam cần đảm bảo vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điện là ngành hạ tầng quan trọng, phát triển điện lực phải đi trước một bước nhằm tạo nền tảng thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, nâng cao đời sống nhân dân và đảm bảo an ninh, quốc phòng và đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết và trước hết.
Phát triển điện phải bám sát xu thế phát triển của khoa học - công nghệ trên thế giới, nhất là năng lượng tái tạo, năng lượng mới; gắn với quá trình chuyển đổi nền kinh tế đất nước theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế cac- bon thấp. Thực tế cho thấy vừa qua, sự quản lý vận hành và chiến lược đầu tư của ngành điện còn nhiều bất cập, hạn chế đến sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, và đã được nhiều nhà đầu tư FDI quan tâm và lưu ý cảnh báo vấn đề này, tại các sự kiện hội thảo, hội nghị với lãnh đạo Chính phủ Việt Nam.