Công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu vượt bậc sau 35 năm đổi mới. Ngay cả về những thành tựu căn bản như vậy, cũng có những luồng ý kiến chỉ trích, thậm chí bôi nhọ, đả kích và chống phá.
Về cơ sở bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, ở Việt Nam không ngừng được cải thiện, nâng cấp. Hệ thống báo chí, truyền thông đại chúng đang phát triển, thậm chí phát triển vượt trên nhu cầu của nền kinh tế-xã hội. Hiện Việt Nam có 780 cơ quan báo chí. Mỗi người dân, về nguyên tắc đều có vài ba cơ quan báo chí đại diện ngôn luận cho mình. Vì theo thiết kế hệ thống, mỗi cơ quan báo chí là đại diện ngôn luận của tổ chức trong hệ thống chính trị, theo đó, mỗi công dân đều có thể thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình trước công luận. Việt Nam hiện là quốc gia top đầu về tỷ lệ công dân tham gia mạng xã hội với hơn 70% công dân khắp các vùng, miền và các nhóm xã hội khác nhau. Theo luật định, không ai và nhóm công dân nào bị cấm hay bị hạn chế tham gia mạng xã hội cũng như thể hiện quyền tự do ngôn luận của mình.
Thế nhưng, vẫn còn không ít biểu hiện thiếu tôn trọng các chuẩn mực văn hóa của cộng đồng. Điều này thể hiện trong sử dụng các ngôn từ, giọng điệu, hình ảnh để biểu thị thái độ và hành vi trước các sự kiện và vấn đề xã hội; như ủng hộ hay phản đối cái gì và ủng hộ, phản đối như thế nào, kể cả những biểu hiện cực đoan trong việc ủng hộ và phản đối. Mỗi sự kiện và vấn đề xã hội đều có tính hai mặt của nó; việc ủng hộ hay phản đối “đúng ngưỡng” đòi hỏi mỗi người cần hiểu biết chuẩn mực ứng xử; và “cái chuẩn” quan trọng chính là ở văn hóa, ở cái tâm của mỗi người.
Một số trường hợp lợi dụng những sai phạm trong thực thi công vụ của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, thậm chí cả những phát ngôn xây dựng hoặc ý kiến của chuyên gia, nhà khoa học có uy tín mà ai đó chưa đồng tình, cũng kích hoạt trên MXH thành luồng ý kiến like, comment phản đối rần rần với những từ ngữ, giọng điệu khó chấp nhận. Đây là một trong những biểu hiện làm giảm hàm lượng văn hóa trong ngôn luận và giao tiếp cộng đồng.
Lợi dụng quyền tự do ngôn luận trên mạng xã hội, kết nối xã hội trong môi trường truyền thông số để chỉ trích, thậm chí công kích chủ trương, quyết sách phát triển kinh tế-xã hội của Đảng, Nhà nước; và mỗi khi bị cơ quan chức năng xử lý thì đối tượng bị xử phạt cho rằng “vi phạm tự do ngôn luận” của công dân!
Tự do ngôn luận khác về bản chất với "ngôn luận tự do”. Tự do ngôn luận cần bảo đảm tuân thủ chuẩn mực pháp lý, chuẩn mực văn hóa, giao tiếp, là quyền cơ bản của công dân tham gia trao đổi, chia sẻ, tranh luận và phản biện xã hội vì mục đích xây dựng, vì lợi ích công; chứ không phải lợi dụng quyền này để thỏa mãn và mưu lợi cá nhân, để xâm hại lợi ích công và chuẩn mực văn hóa cộng đồng. Còn ngôn luận tự do là tự do nói năng, phát ngôn, bình luận, chia sẻ, tán phát thông tin một cách tùy tiện, vô lối. Trên thực tế, không có quyền tự do nào là tuyệt đối mà chỉ có quyền tự do tương đối.
Nếu để tự do tuyệt đối nghĩa là tự do vô giới hạn, vô chính phủ sẽ dẫn đến tình trạng mất kiểm soát, gây ra rối loạn xã hội. Nếu ai cũng nói năng bừa bãi, phát ngôn tùy tiện, chia sẻ thông tin bất chấp đúng-sai, thật-giả lẫn lộn, không chỉ làm cho xã hội rơi vào tình trạng rối nhiễu thông tin mà còn có thể tạo ra những cuộc khủng hoảng thông tin xã hội một cách trầm trọng, từ đó gây mất ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Một số trường hợp tán phát tài liệu trên mạng xã hội để xuyên tạc, công kích, chống phá các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây hoang mang, dao động trong một bộ phận công chúng. Tại Việt Nam, thể chế đang tiếp tục được hoàn thiện đáp ứng nhu cầu phát triển trong bối cảnh mới. Mmỗi công dân cần nhận thức, thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ công dân, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Bởi các quyền này, bản thân nó có khả năng tạo ra siêu kết nối xã hội và từ đây, có thể kết nối trí tuệ và cảm xúc cộng đồng và đó là một trong những động lực tạo nên niềm tin, sức mạnh mềm cho sự phát triển bền vững đất nước./.
NVD