Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 thì nước ta không chỉ có phần lục địa tương đối nhỏ hẹp “hình chữ S” mà còn có cả vùng biển rộng lớn hơn 1 triệu km2, gấp hơn ba lần diện tích đất liền. Ven bờ biển có trên 100 cảng biển, 48 vụng, vịnh và trên 112 cửa sông, cửa lạch đổ ra biển.
Vùng biển có hơn 3.000 đảo và quần đảo lớn, nhỏ với diện tích phần đất nổi khoảng 1.636 km2, được phân bố chủ yếu ở vùng biển Đông Bắc và Tây Nam với những đảo nổi tiếng giàu, đẹp và vị trí chiến lược như Bạch Long Vĩ, Phú quốc, Thổ Chu, Côn Sơn, Cồn Cỏ, Phú Quý, Cát Bà, Hoàng Sa, Trường Sa...
Tuyến biển có 29 tỉnh, thành phố gồm: 124 huyện, thị xã với 612 xã, phường (trong đó có 12 huyện đảo, 53 xã đảo) với khoảng 20 triệu người sống ở ven bờ và 17 vạn người sống ở các đảo.
Cảng TC-HICT (Hải Phòng) đang tiếp nhận 12 tuyến dịch vụ mỗi tuần trong đó 6 tuyến dịch vụ đi trực tiếp đến Hoa Kỳ. Ảnh: Minh Huệ
Hiện nay, nhiều nước và vùng lãnh thổ trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore... có nền kinh tế hầu như phụ thuộc sống còn vào con đường Biển Đông.
Ở nước ta nằm trong số 10 quốc gia có chỉ số cao nhất về chiều dài bờ biển so với diện tích lãnh thổ, bình quân 10km2 đất liền có 1km bờ biển, cao gấp 6 lần chỉ số trung bình của thế giới.
Vùng biển kinh tế đặc quyền rộng gấp 3 lần diện tích đất liền, chứa đựng nhiều hệ sinh thái quan trọng và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng.
Vị thế trên vùng biển còn thể hiện ở giá trị sử dụng của không gian biển mang khí hậu nhiệt đới gió mùa, có nhiều khu vực ấm quanh năm nên rất thuận lợi cho du khách từ nhiều quốc gia, có mùa đông giá lạnh tới nghỉ dưỡng, tắm biển…
Nhiều vị trí là vũng, vịnh kín có độ sâu lớn, rất thuận lợi làm cảng, không gian rộng lớn ở ven biển và trên bờ biển rất thuận lợi để phát triển các khu kinh tế và nhiều không gian mặt nước và các bãi bồi ven biển cũng rất thuận lợi để nuôi trồng hải sản có giá trị kinh tế cao.
So với nhiều quốc gia, lãnh thổ trong khu vực thì vùng biển của nước ta còn chiếm lợi thế về vị trí địa kinh tế, chính trị đặc biệt quan trọng nổi bật như:
Lợi thế về vùng biển Việt Nam có vị trí thuận lợi ngay trên một số tuyến hàng hải chính của quốc tế qua Biển Đông, trong đó có tuyến đi qua eo biển Malacca, là một trong những tuyến có lượng tàu bè qua lại nhiều nhất thế giới. Bờ biển Việt Nam lại rất gần các tuyến hàng hải đó nên rất thuận lợi trong việc phát triển giao thương quốc tế.
Hiện nay, hầu hết khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và một phần giao lưu nội địa của nước ta được vận chuyển bằng đường biển trên Biển Đông.
Trong một vài thập kỷ tới, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của các nước trong khu vực, khối lượng hàng hóa vận chuyển qua Biển Đông sẽ tăng gấp hai, ba lần hiện nay.
Đây là con đường biển ngắn nhất nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương cũng là con đường huyết mạch nối liền Đông bán cầu và Tây bán cầu, xưa đến nay vẫn là tuyến hàng hải sôi động thứ 2 trên thế giới.
Nguồn tài nguyên biển có khả năng khai thác lớn chủ yếu là dầu khí, một nguồn tài nguyên mũi nhọn có ưu thế nổi trội trên vùng biển rộng hơn l triệu km2 của Việt Nam, có tới 500.000 km2 nằm trong vùng triển vọng có dầu khí.
Trữ lượng dầu khí ngoài khơi có thể chiếm 25% trữ lượng dầu dưới đáy Biển Đông. Có thể khai thác từ 30-40.000 thùng/ngày (mỗi thùng 159 lít), khoảng 20 triệu tấn/năm. Trữ lượng dầu khí dự báo của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỉ tấn quy dầu.
Bên cạnh dầu, còn có khí đốt với trữ lượng khoảng 3.000 tỉ m3/năm; khoáng sản thiếc, ti-tan, đi-ri-con, thạch anh, nhôm, sắt, măng-gan, đồng, kền và các loại đất hiếm; muối ăn chứa trong nước biển bình quân 3.500gr/m2…
Vùng ven biển nước ta cũng có nhiều loại khoáng sản có giá trị và tiềm năng phát triển kinh tế như: than, sắt, ti-tan, cát thuỷ tinh và các loại vật liệu xây dựng khác.
Tuy nguồn tài nguyên này so vơi các nước chưa phải lớn, nhưng với nước ta nó có vị trí rất quan trọng, nhất là trong bối cảnh Công nghiệp hoá - hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Phong phú về hải sản quý hiếm có gía trị cao ngoài cá biển là nguồn lợi chính còn nhiều loại đặc sản khác có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, mực, hải sâm, rong biển…
Có hơn 2.000 loài khác nhau, trong đó trên 100 loài có giá trị kinh tế cao với tổng trữ lượng hải sản khoảng 3- 4 triệu tấn, khả năng cho phép khai thác 1,5- 1,8 triệu tấn/năm.
Đến nay đã xác định 15 bãi cá lớn quan trọng, trong đó 12 bãi cá phân bố ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở các gò nổi ngoài khơi.
Bên cạnh đó, các vùng ven biển có trên 370.000 ha mặt nước các loại có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn - lợ, nhất là nuôi các loại đặc sản xuất khẩu như tôm, cua, rong câu… có diện tích nuôi tôm nước lợ có tới 300.000 ha.
Ngoài ra, còn hơn 500.000 ha các eo vịnh nông và đầm phá ven bờ như vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Phá Tam Giang, Vịnh Văn Phong… là môi trường rất thuận lợi để phát triển nuôi cá và đặc sản biển.
Trong tương lai có thể phát triển mạnh ngành nuôi, trồng hải sản ở biển và ven biển một cách toàn diện và hiện đại với sản lượng hàng chục vạn tấn/năm.
Khai thác hải cảng nước sâu với quy mô vừa tại một số nơi như: Cái Lân và một số điểm ở khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, Nghi Sơn, Hòn La - Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Văn Phong, Cam Ranh, Vũng Tàu, Thị Vải, Hòn Chông, Phú Quốc hoặc cảng sông Cần Thơ... với trên 100 địa điểm dọc theo bờ biển có thể xây dựng hải cảng.
Trong đó, có những khu vực từ Vũng Tàu đến Hà Tiên có thể phát triển xây dựng cảng biển lớn có công năng vận tải hàng hoá lớn và hiện nay nhiều cảng nước ta đủ tiêu chuẩn để đón các tàu khách quốc tế cỡ lớn không kém so với các nước trong khu vực.
Ưu thế phát triển du lịch biển mở ra triển vọng mới bởi nước ta có bờ biển dài từ Bắc chí Nam (Móng Cái đến Hà Tiên), có hơn 125 bải tắm lớn nhỏ, có những bãi tắm đẹp nỗi tiếng thế giới như: Trà Cổ, Sầm Sơn, Cửa Lò, Cửa Tùng, Lăng Cô, Mỹ Khê, Eo gió, Đại Lãnh, Nha Trang, Ninh Chữ, Mũi Né, Vũng Tàu, Hà Tiên, Phú Quốc…
Đặc biệt vịnh Hạ Long với cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp hai lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới, các di sản thiên nhiên, văn hóa thế giới được UNESCO công nhận cũng đều nằm ở các tỉnh ven biển (Quảng Ninh, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Quảng Bình).
Bên cạnh đó. hệ thống đảo và quần đảo phong phú, trải dài từ vùng biển Quảng Ninh đến Kiên Giang có đến 2.773 đảo lớn, nhỏ các loại với tổng diện tích khoảng 1.700 km2. Trong đó, đảo Phú Quốc, Cái Bầu, Cát Bà có diện tích trên 100km2, 24 đảo có diện tích trên 10km2, 82 đảo có diện tích hơn 1km2 và khoảng 1.400 đảo chưa có tên, đây sẽ là điều kiện thuận lợi để du lịch biển phát triển mạnh hơn.
Các tỉnh ven biển nước ta còn có nhiều thế mạnh khác trong đất liền như các di tích, danh lam thắng cảnh, các làng nghề truyền thống, các lễ hội. Sự kết hợp hài hoà giữa cảnh quan tự nhiên với cảnh quan văn hoá - xã hội của biển, vùng ven biển và các hải đảo cùng với điều kiện thuận lợi về vị trí, địa hình của vùng ven biển đã tạo cho du lịch biển có lợi thế phát triển hơn hẳn so với nhiều loại hình du lịch khác trên đất liền.
Nguồn nhân lực dồi dào ven biển là một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định kết quả khai thác tiềm năng nguồn lợi biển. Hiện nay có khoảng 20 triệu người đang sinh sống, các vùng ven biển và đảo của Việt Nam đang có lực lượng lao động khoảng 12,8 triệu người, chiếm 35,47% lao động cả nước.
Từ bao đời nay, biển luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của dân tộc Việt Nam và đây là nguồn nhân lực quan trọng phát triển kinh tế biển một cách làm đầy hứa hẹn, mang tính chiến lược và được đánh giá là đóng vai trò ngày càng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.