Câu hỏi: Xin cho biết nhiệm vụ, giải pháp tăng cường công tác dân vận của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII.
Trả lời
Công tác dân vận của Đảng là một nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, góp phần hết sức to lớn làm nên những thành quả vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá: “Công tác dân vận được chú trọng và tiếp tục đổi mới; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường”(1) và “mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(2). Đại hội XIII bổ sung nội hàm của phương châm “kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(3).
Công tác dân vận là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng nhằm vận động nhân dân thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”(4) thể hiện ở một số nội dung sau:
Một là, “tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận” (5).
Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, công tác dân vận luôn đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, góp phần tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức, trách nhiệm, tăng cường công tác phối hợp trong hệ thống chính trị, nhất là người đứng đầu, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên về công tác dân vận. Từ đó, góp phần tạo đồng thuận, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tạo sự đồng bộ, hiệu quả hơn trong công tác dân vận. Phong trào thi đua “Dân vận khéo” được đẩy mạnh gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã đem lại nhiều hiệu quả và có ý nghĩa thiết thực trên tất cả các lĩnh vực. Cấp ủy các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, tuyên truyền và thực hiện tốt các văn bản của Trung ương về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới. Qua đó để định hướng và phát huy sức mạnh của dư luận xã hội theo hướng tích cực; nhân dân thấy được sự đúng đắn trong các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, quy định của địa phương mà tự giác thực hiện. Không chỉ dừng lại ở nhận thức mà đòi hỏi hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên phải nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn, tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia tích cực vào các phong trào cách mạng, phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh
Hai là, “tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”(6).
“Trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân” là phương châm để thực hiện có hiệu quả công tác dân vận của Đảng. Người cán bộ của dân thì phải tìm hiểu xem người dân đang mong muốn điều gì; cuộc sống của dân ra sao. “Trọng dân” là gốc của phong cách mà cơ sở lý luận của nó xuất phát từ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của nhân dân”, “nước lấy dân làm gốc”. Có trọng dân thì người cán bộ mới thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân. “Gần dân” là đòi hỏi khách quan của người cán bộ dân vận. Những người có phong cách gần dân sẽ tránh được căn bệnh quan liêu, hách dịch, mệnh lệnh. Muốn hiểu dân thì phải gần dân, không được quan liêu, phải hòa mình với người dân ở cơ sở, lắng nghe ý kiến của dân. Từ đó xây dựng tinh thần đoàn kết, sự đồng thuận để mọi người dân cùng chung sức, đồng lòng thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước với kết quả cao nhất. Có gần dân thì mới hiểu được cuộc sống, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân và do đó mới tham mưu đúng, tham mưu trúng cho cấp ủy đảng, chính quyền những chủ trương, chính sách phù hợp với lòng dân. Muốn “học dân” thì người cán bộ phải hết sức khiêm tốn, cầu thị, biết lắng nghe, không được tự cho mình cái gì cũng biết. Chính nhân dân là những người sáng suốt, có rất nhiều kinh nghiệm trong đối nhân xử thế, sáng tạo trong cuộc sống, làm nên lịch sử. Cán bộ dân vận muốn thật sự đến với dân, muốn trở thành người đầy tớ của dân thì phải có trách nhiệm với dân, nghĩa là mọi việc đều vì hạnh phúc của nhân dân. Đồng thời, cán bộ dân vận phải tuyên truyền, giải thích cho dân hiểu những chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước để dân hiểu và thực hiện. Có gần dân thì mới được dân tin, học được dân và nghe được dân nói thật.
Ba là, “chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác dân vận”(7).
Để tăng cường công tác dân vận nhất thiết phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận của Đảng, có cơ chế, chính sách thu hút người có năng lực, có uy tín, có kinh nghiệm làm công tác dân vận; chú trọng luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, nhất là cán bộ trẻ tuổi, có năng lực về làm công tác dân vận.
Đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận phải được đào tạo cơ bản về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận. Từ đó, cán bộ làm dân vận nắm vững và hiểu rõ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tạo được bản lĩnh vững vàng và linh hoạt trong mọi hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện nhiệm vụ bao trùm của công tác dân vận là tập hợp, động viên mọi tầng lớp nhân dân đoàn kết, củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đồng thời, đội ngũ cán bộ phải tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, có lối sống đúng đắn, hòa nhập với cộng đồng, giữ mối liên hệ chặt chẽ với nơi cư trú; không ngừng cố gắng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tích lũy kinh nghiệm trong công việc; có trách nhiệm, tâm huyết với công tác dân vận; tận tụy phục vụ nhân dân; là những cán bộ, đảng viên gương mẫu trong công việc và cuộc sống để nhân dân học tập theo. Cùng với việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, cũng phải chú trọng xây dựng lực lượng nòng cốt, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo làm công tác dân vận ở cơ sở. Họ chính là những cánh tay nối dài giữa Đảng, chính quyền và nhân dân.
Bốn là, nâng cao chất lượng giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân(8).
Giám sát, phản biện xã hội là một hoạt động cơ bản của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo vệ thể chế chính trị, góp phần vào thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Giám sát góp phần thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các chương trình, dự án kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém để kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp; phát hiện những nhân tố mới, những mặt tích cực để kịp thời phổ biến nhân rộng, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh, làm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Phản biện xã hội nhằm phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể,… Từ đó, kiến nghị bổ sung, sửa đổi những nội dung thiết thực, góp phần đảm bảo tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cuộc sống xã hội và đảm bảo tính hiệu quả; đồng thời góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để nâng cao chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các cấp ủy, tổ chức đảng, một mặt, phải tôn trọng tính độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, đồng thời tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy tính chủ động hơn trong hoạt động, để gần dân, sát dân hơn. Lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, làm tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở, phù hợp với trình độ dân trí và đặc điểm, tình hình cụ thể của từng giai tầng xã hội, trong từng thời kỳ.
Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội phát huy vai trò làm tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền về nội dung, hình thức, phương pháp công tác dân vận và làm nòng cốt trong việc tổ chức các phong trào thi đua, trong tuyên truyền, vận động thu hút hội viên, nắm bắt dư luận xã hội, phát huy dân chủ, năng lực trí tuệ, ý thức trách nhiệm của công dân trong thực hiện giám sát xây dựng chính quyền, xây dựng Đảng. Đồng thời tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án ngay từ khi đang còn dự thảo; những văn bản liên quan đến quyền lợi của nhân dân như: Giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư,... nhất thiết phải tham khảo ý kiến của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trước khi ban hành; chú trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân trong quá trình tổ chức thực hiện.
Năm là, “tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận”(9).
Tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận vừa góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo của cấp ủy, vừa làm cho sự lãnh đạo gắn với thực tiễn hơn; đảm bảo tính thống nhất giữa nghị quyết và sự chấp hành, giữa lời nói và việc làm; khắc phục có hiệu quả bệnh quan liêu, chủ quan, duy ý chí, thiếu trách nhiệm ở một số đảng viên. Việc kiểm tra, giám sát được tiến hành có nền nếp, đúng quy trình sẽ góp phần ngăn ngừa các biểu hiện mất đoàn kết trong quá trình tổ chức thực hiện, đảm bảo cho nguyên tắc tổ chức hoạt động của Đảng được thực hiện nghiêm túc; khắc phục tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” trong công tác dân vận. Mặt khác, qua kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm giúp cấp ủy nắm rõ được tình hình, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc trong nhân dân; chấn chỉnh, uốn nắn kịp thời những sai sót, lệch lạc trong công tác này. Chính sự thường xuyên kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm làm cho các cấp ủy, cá nhân có liên quan không dám chủ quan, lơ là trong quá trình thực thi nhiệm vụ được phân công, nhờ đó đảm bảo được mục tiêu, yêu cầu ban đầu đã đề ra. Trên cơ sở chỉ đạo, kiểm tra, giám sát các cấp ủy sẽ có những định hướng chỉ đạo công việc thời gian tiếp theo.
Từ tổng kết thực tiễn trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta có nhiều nghị quyết, quyết định, chỉ thị lãnh đạo công tác dân vận của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng là một trong những nội dung quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng nói chung, đặc biệt là các chủ trương, nghị quyết và các văn bản của Đảng về công tác dân vận. Để lãnh đạo tốt công tác dân vận, các cấp ủy phải xem trọng công tác kiểm tra, giám sát những chỉ thị, quyết định, chương trình công tác dân vận. Chú trọng xây dựng được chương trình, kế hoạch cụ thể của công tác kiểm tra, giám sát nghị quyết, các văn bản, quyết định liên quan đến công tác dân vận. Đồng thời, từ kiểm tra phát hiện những việc chưa làm, làm chưa tốt để nhắc nhở các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên gương mẫu đi đầu, thực hiện nhiệm vụ vận động nhân dân thực hiện Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, quyết định của chính quyền, công việc đoàn thể liên quan đến đời sống nhân dân.
Công tác sơ kết, tổng kết công tác dân vận cần được các cấp ủy đảng chỉ đạo kịp thời sau mỗi chương trình, kế hoạch, phong trào, hằng quý, hằng năm. Phải kịp thời biểu dương những điển hình mô hình hay, người làm tốt, khuyến khích, tạo sức lan tỏa tốt trong cộng đồng dân cư, qua đó kịp thời động viên, khích lệ các tổ chức, cá nhân tích cực vận động nhân dân tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền, đoàn thể để thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Chú thích và tài liệu tham khảo:
(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9): Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., tập II, tr. 201-202; tập I, tr. 28; tập I, tr. 27; tập II, tr. 248; tập II, tr. 248; tập II, tr. 248; tập II, tr. 249; tập II, tr. 249; tập II, tr. 249.
Ngọc Cảnh