GS.TS Võ Tòng Xuân phát biểu tại hội thảo “Phát triển bền vững ĐBSCL, giải pháp từ cây lúa”. Ảnh: TBKTSG
Sự kiện do báo Thanh Niên phối hợp với UBND tỉnh Đồng Tháp tổ chức sáng 18-11 tại Đồng Tháp, hướng tới mục tiêu góp phần kiến tạo chiến lược dài hạn hơn cho ngành sản xuất là sinh kế của hàng chục triệu nông dân.
Nhà báo Nguyễn Ngọc Toàn, Tổng biên tập báo Thanh Niên, cho biết Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch tích hợp vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn 2050. Trong đó cho phép giảm 88.560 hecta trong tổng số 3,9 triệu hecta đất trồng lúa đồng thời tổ chức lại không gian sản xuất, phối hợp với phát triển đô thị và công nghiệp chế biến.
Theo ông Toàn, nhiều thập niên qua, ĐBSCL đã gánh và làm tròn trách nhiệm an ninh lương thực, đặc biệt là vừa qua, khi hạn hán, đại dịch Covid-19 cùng chiến sự Nga – Ukraine gây đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, đe dọa an ninh lương thực – thực phẩm ở nhiều quốc gia. Ông Toàn cho rằng, là vựa lúa của cả nước, thậm chí cả khu vực, nên bất kể một giải pháp nào liên quan đến phát triển kinh tế vùng ĐBSCL cũng phải bắt đầu từ cây lúa.
Tuy vậy, thị trường lương thực – thực phẩm thế giới và trong nước đã có nhiều thay đổi. Nhu cầu về tinh bột giảm, yêu cầu về chất lượng tăng. Trong nước, biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan và nghiêm trọng đã tác động sâu sắc đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp của các tỉnh miền Tây, đến sinh kế của người dân.
Bối cảnh đó đòi hỏi nông nghiệp ĐBSCL phải có sự chuyển đổi để thích ứng với tình hình mới. “Nhưng, chuyển đổi thế nào để phát huy lợi thế của cây lúa, thế mạnh hàng đầu của ĐBSCL; để các sản vật ở các địa phương bứt phá, mang lại nguồn lợi kinh tế cao cho bà con nông dân? Làm thế nào để thu hút vốn đầu tư vào vùng đồng bằng trù phú bậc nhất thế giới của Việt Nam?”, ông Toàn đặt vấn đề.
Ông Lê Quốc Phong, Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Đồng Tháp, cho rằng với vị thế của một vùng đất nông nghiệp, vựa lúa lớn nhất nước, ĐBSCL đang kỳ vọng chờ đón nhiều chính sách, giải pháp để bứt phá, phát triển. Khát vọng cho một vùng đồng bằng nhiều tiềm năng, thoát trũng, phát triển bền vững là khát vọng của nhiều thế hệ trong khu vực.
Trích dẫn Báo cáo Kinh tế thường niên vùng ĐBSCL mới được công bố, ông Lê Quốc Phong cho biết, điểm sáng nhất năm 2021 là nông nghiệp ĐBSCL vẫn tăng trưởng 3,4%; xuất khẩu nông sản, thủy sản đóng vai trò then chốt trong việc duy trì thặng dư thương mại của Việt Nam.
Riêng với Đồng Tháp, cùng với xoài, cá tra, sen, hoa kiểng, lúa gạo là một trong năm ngành hàng nông nghiệp chủ lực của tỉnh. Để nâng cao giá trị cây lúa, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp tiên tiến như “1 phải – 5 giảm”, “3 giảm – 3 tăng”, ứng dụng cơ giới hóa toàn diện, nông nghiệp thông minh, chuyển đổi số, giảm phát thải khí nhà kính, canh tác hữu cơ với các mô hình xen canh, hợp canh như lúa – cá, lúa – sen… đã được triển khai. Nhờ đó, đã giúp tăng thêm thu nhập trung bình cho người nông dân từ 5,3 – 7,7 triệu đồng/héc-ta.
Ngoài ra, giá trị ngành hàng chế biến lúa gạo liên tục tăng trưởng với nhiều sản phẩm đa dạng, nâng cao giá trị cây lúa, mở ra nhiều chuỗi giá trị mới, mang lại thu nhập cao hơn. Đồng Tháp cũng đã đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, giúp nâng cao lợi nhuận trên cùng một diện tích đất, từ 30 – 550 triệu đồng/héc-ta.
Nông dân Đồng Tháp thu hoạch lúa. Ảnh: TBKTSG
Tuy vậy, ông Lê Quốc Phong chia sẻ, thu nhập của nông dân trồng lúa chưa ổn định và vẫn còn thấp so với các loại nông sản khác. Những bất ổn liên quan nguyên liệu đầu vào, chi phí tăng, thị trường không ổn định, giá bán thấp tiếp tục đe dọa đến thu nhập của nông dân trồng lúa khiến cuộc sống người dân thiếu bền vững.
Đề xuất giải pháp, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp cho biết, ngày 24-9 vừa qua, Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố báo cáo “Hướng tới chuyển đổi nông nghiệp xanh ở Việt Nam: Chuyển sang mô hình lúa gạo carbon thấp”. Theo đó, việc chuyển sang cách trồng lúa giảm phát thải là giải pháp tiềm năng để tối ưu hóa việc sử dụng giống, phân bón, thuốc trừ sâu, giúp giảm chi phí đầu vào từ 20-30% và tăng sản lượng từ 5-10%. Qua đó lợi nhuận ròng tăng khoảng 25%, đạt mục tiêu cắt giảm 30% sản lượng khí mê-tan vào năm 2030, tăng khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu.
Ông Lê Quốc Phong nói: “Ngoài giải pháp này, chúng tôi tin rằng vẫn còn nhiều giải pháp có thể cùng kết hợp để giúp người nông dân trồng lúa nâng cao thu nhập, để người dân an tâm sản xuất lúa vừa bảo đảm an ninh lương thực vừa có cuộc sống sung túc hơn”.
Trong phát biểu ghi hình gửi hội thảo, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) Lê Minh Hoan cho rằng nhiều năm nay, ngành lúa gạo chạy theo tư duy sản xuất lấy sản lượng làm mục tiêu và làm mọi cách để tăng sản lượng nhưng vẫn không giúp tăng thu nhập, thậm chí là ngược lại.
Dẫn chứng hình ảnh “Think rice – Think Thailand” tại một hội chợ ở Thái Lan, ông Hoan nói, người Thái đã tiếp cận một tư duy khác đối với ngành hàng lúa gạo trong khi chúng ta đang tiếp cận ở tư duy sản lượng.
“Tôi nói lại một lần nữa là chúng ta phải chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp, đó là chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh.
Ông cũng nhắc lại lời một lão nông ở Đồng Tháp nhắn gửi trước khi ông nhận nhiệm vụ Bộ trưởng Bộ NN-PTNT, là: “Nếu lúa có giá, thì nông dân chúng tôi sẵn sàng ra ngoài đồng để giăng mùng, để ngủ giữ lúa cho Chính phủ, để làm an ninh lương thực. Còn nếu lúa không có giá, thu nhập của người trồng lúa không sống nổi thì chúng tôi sẽ bỏ ruộng, lúc đó mới là vấn đề đối với an ninh lương thực”.
Theo ông Hoan, nông nghiệp ĐBSCL không phải một loại nông sản để buôn chuyến, mà nó đã trở thành một chuỗi ngành hàng kinh tế. Bởi vì đến lúc, sản lượng sẽ nhỏ lại, diện tích sẽ giảm nhưng phải tăng về chất và về giá trị.
“Mục tiêu của chúng ta nằm ở chỗ đó. Chúng ta phải tổ chức lại một hệ sinh thái ngành hàng, có sự tham gia đầy đủ từ các nhà khoa học, các viện, các trường, các hợp tác xã tới người nông dân rồi chính quyền địa phương vào cuộc. Đó là một chuỗi để nâng hình ảnh của ngành lúa gạo lên, nâng thương hiệu của lúa gạo ĐBSCL lên, nâng cái chuỗi giá trị lên. Tôi tin rằng chúng ta làm được”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nói.
GS.TS Võ Võ Tòng Xuân, chuyên gia kinh tế nông nghiệp, cho rằng từ năm 1989 đến nay, nông dân trồng lúa đã giúp cho Việt Nam vào vị trí top 3 quốc gia xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Thế nhưng người trồng lúa vẫn chưa làm giàu được do chạy theo sản lượng bằng việc sử dụng quá nhiều hóa chất, giá thành cao, chất lượng thấp, vừa phí phạm nước tưới.
Theo GS Xuân, hiện cây lúa nước ta phải sống chung với biến đổi khí hậu, tăng phát thải khí nhà kính, vừa làm nhiệm vụ chính trị bảo đảm an ninh lương thực vừa làm nhiệm vụ kinh tế cho xã hội. Trong khi đó, một số ít nông dân đã làm giàu nhờ chuyển sang sản xuất cây con khác không phải cây lúa.
Giải pháp căn bản nhất, theo GS Võ Tòng Xuân, Nhà nước cần quy hoạch lại ba vùng sản xuất lúa theo hướng phù hợp và bền vững ờ ĐBSCL.
Một là ở vùng đất phù sa cổ xen lẫn đất phèn sâu, quanh năm có nước ngọt, không có nước mặn xâm nhập, hệ thống thủy lợi đã được trang bị đầy đủ thì có thể áp dụng kỹ thuật canh tác an toàn thực phẩm chất lượng cao, chủ yếu sử dụng giống lúa ngắn ngày năng suất cao, hạt dài, trung bình, hoặc tròn tùy theo nhu cầu của khách hàng.
Hai là ở vùng trũng, phù sa có phèn, hàng năm bị ngập lũ trong mùa mưa và thủy triều, khô hạn trong mùa nắng đang sản xuất 3 vụ lúa/năm trong các vùng đê bao ngăn lũ có đầy đủ hệ thống thủy lợi, thì hướng tới sẽ giảm diện tích lúa.
Còn với vùng ven biển thì đây là vùng sản xuất bền vững nhất. Phải quy hoạch để trồng lúa chất lượng cao xen nuôi tôm càng xanh trong mùa mưa và nuôi thủy sản nước lợ, nước mặn trong mùa nắng.
Nhấn mạnh thêm cho giải pháp thứ ba này, GS Võ Tòng Xuân nói: “Để tạo điều kiện cho nông dân sử dụng hữu hiệu nước mặn trong mùa nắng, Nhà nước sẽ đầu tư xây dựng các hệ thống thủy lợi lấy nước mặn vào và đưa nước thải ra khu xử lý. Đồng thời phải tiếp tục đầu tư khoa học và cấu trúc hạ tầng thủy lợi để thiết lập những vườn cây ăn trái hiện đại ở các diện tích lúa trong vùng kém thích nghi giữa đồng bằng và ở vùng lúa – tôm ven biển để nông dân tham gia sản xuất có lợi nhuận lớn hơn”
Theo TBKTSG