Hỏi: Xin cho biết quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an sinh xã hội trong thời kỳ đổi mới?
Trả lời
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta luôn quan tâm, chăm lo thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Điều này thể hiện rất rõ qua các kỳ đại hội của Đảng, nhất là từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), Đảng ta đã đưa ra chủ trương đổi mới đất nước toàn diện. Trong bối cảnh đất nước còn nhiều vấn đề cấp bách phải giải quyết, nhưng bảo đảm an sinh xã hội vẫn luôn được Đảng ta xác định là nhiệm vụ thường xuyên và có tầm quan trọng hàng đầu1. Cụ thể là, mọi chính sách an sinh xã hội phải đảm bảo sao cho người dân “ăn đủ no, có thêm dinh dưỡng, mặc đủ ấm, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về bảo vệ sức khỏe và chữa bệnh, đi lại, học hành và hưởng thụ văn hóa, tăng thêm đồ dùng thiết yếu của các gia đình, khắc phục một bước khó khăn về nhà ở”2. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển nhằm phát huy mọi khả năng của con người trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) lần đầu tiên khẳng định nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội để người dân có “cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”, “bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất”3.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996), nhận thức mới về mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội được Đảng ta xác định là: “vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”4. Mô hình an sinh xã hội có diện bao phủ rộng với trụ cột chính là hệ thống bảo hiểm xã hội, ưu đãi xã hội và cứu trợ xã hội đã được định hình tương đối rõ ràng: “Thực hiện và hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo đảm đời sống người nghỉ hưu được ổn định, từng bước cải thiện. Xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội. Đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo, từ thiện…”5.
Đặc biệt, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đề cập tới cụm từ “an sinh xã hội” khi xác định: “Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp”6. Đồng thời, Đảng đưa ra quan điểm giải quyết các vấn đề xã hội theo tinh thần “xã hội hóa”, đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, huy động các nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia của các đoàn thể và tổ chức xã hội trong việc ổn định và cải thiện đời sống nhân dân; “tập trung tạo việc làm và ổn định việc làm cho khoảng 7,5 triệu người... phấn đấu giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn khoảng 5,4% và nâng quỹ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 80%”7; “Thực hiện cải cách cơ bản tiền lương”8; “Chăm sóc tốt hơn đối với gia đình chính sách và những người có công với cách mạng… chăm sóc, giúp đỡ người già không nơi nương tựa, những người tàn tật và những nạn nhân do hậu quả chiến tranh để lại”9.
Đến Đại hội X (năm 2006), khi tiếp tục đưa chủ trương đảm bảo an sinh xã hội thành định hướng phát triển bền vững đất nước, Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”10, “càng đi vào phát triển kinh tế thị trường, càng phải chăm lo tốt hơn phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khoẻ nhân dân”11. Cùng với đó, Đảng chỉ rõ: “Chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội. Vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, người hưởng chính sách xã hội. Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những người già cô đơn, không nơi nương tựa; giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật, trẻ mồ côi, lang thang….; quan tâm vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”12. Đây là điểm mới so với các kỳ đại hội trước đó, thể hiện ở chỗ, bên cạnh những nhiệm vụ “truyền thống”, nhiệm vụ đảm bảo anh sinh xã hội còn phải hướng đến nhiều đối tượng khác, như người già không nơi nương tựa, nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật, trẻ mồ côi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, v.v… Đây cũng là cơ sở quan trọng để hình thành mạng lưới an sinh xã hội đồng bộ, có diện bao phủ nhiều đối tượng, nhiều khu vực kinh tế - xã hội khác nhau mà Chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2011 - 2020 hướng đến.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011), Đảng ta tiếp tục coi an sinh xã hội là một nhiệm vụ chủ yếu thường xuyên, là cơ sở để phát triển bền vững giữa tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị - xã hội và bảo vệ môi trường. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 01/6/2012 về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”, đề ra quan điểm bảo đảm an sinh xã hội với cấu trúc gồm: 1. Việc làm, thu nhập và giảm nghèo; 2. Bảo hiểm xã hội; 3. Trợ giúp xã hội những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; 4. Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân (giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin). Quan điểm này đã trở thành nền tảng và định hướng cho việc thể chế hóa cơ chế, chính sách, pháp luật về an sinh xã hội gắn liền với yêu cầu thực tiễn của đất nước.
Đại hội XII (năm 2016) tiếp tục khẳng định sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng hướng tới thực hiện an sinh xã hội toàn dân. Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra một trong những phương hướng, nhiệm vụ đó là: Giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội. Cụ thể: “Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động... Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng. Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Điều chỉnh chính sách dạy nghề, gắn đào tạo với sử dụng. Điều chỉnh chính sách xuất khẩu lao động hợp lý. Hoàn thiện và thực hiện chính sách bảo hộ lao động”13. Đồng thời, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động,...”14; “thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng chính sách, người nghèo, nhân dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất và sinh viên,...”15.
Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) đã đề ra các định hướng lớn bao quát những vấn đề phát triển quan trọng của đất nước trong giai đoạn 2021 - 2030. Một trong những định hướng phát triển đất nước được nêu rõ tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đó là: “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;… quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”16.
Cùng với đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách đối với người có công trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước và xã hội, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú”17; “Cải cách chính sách tiền lương theo hướng gắn với sự thay đổi giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng năng suất lao động, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động, tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả”18; “Cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng, chia sẻ - bền vững”19.
Như vậy, từ Đại hội VI đến Đại hội XIII, quan điểm của Đảng về an sinh xã hội ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn. Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời ban hành các chủ trương, chiến lược phù hợp, từng bước đáp ứng các nhu cầu an sinh xã hội.
------------------------
Chú thích và tài liệu tham khảo
(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, H., 1987, tr.15, 43.
(3), (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X), Nxb. Chính trị quốc gia, H., 2008, tr.233, 651.
(4), (5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H., 1996, tr.28, 115.
(7), (8), (9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H., 2001, tr.298, 301, 301.
(10), (11), (12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H., 2006, tr.101, 182, 104-105.
(13), (14), (15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H., 2016, tr.136-137, 137, 137.
(16), (17), (18), (19) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., 2021, tr.116, 148-149, 149, 150.
Hải Hà