Cơ cấu nợ tích cực, dư nợ trong nước tăng lên
Trong thời gian qua, các chỉ tiêu an toàn nợ công tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ trong giới hạn được Quốc hội phê chuẩn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và góp phần củng cố dư địa chính sách tài khóa.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, nợ công của Việt Nam năm 2023 vẫn ở mức bền vững, ổn định. Quy mô nợ công đến cuối năm 2023 khoảng 37% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trần 60% Quốc hội đề ra. Nợ Chính phủ khoảng 34% GDP, thấp hơn nhiều so với trần 50%. Mức dư nợ này thấp hơn nhiều so với mức trung bình năm 2023 của các quốc gia có mức xếp hạng tín nhiệm BB là 52,8% GDP và BBB là 54,9% GDP, trong khi mức tín nhiệm của Việt Nam còn thấp hơn 1 bậc so với mức tín nhiệm BBB.
Cơ cấu nợ tích cực, dư nợ trong nước tăng lên, chiếm khoảng 71% dư nợ Chính phủ góp phần giảm thiểu rủi ro tỷ giá. Nợ trong nước chủ yếu là trái phiếu Chính phủ (TPCP) có kỳ hạn phát hành dài, giảm thiểu rủi ro vay đảo nợ. Kỳ hạn phát hành bình quân TPCP dự kiến năm 2023 khoảng 12,4-12,5 năm, đảm bảo mục tiêu từ 9-11 năm theo Nghị quyết của Quốc hội số 23/2021/QH15 về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025. Lãi suất phát hành TPCP được điều hành thận trọng, đảm bảo phối hợp hài hòa với điều hành chính sách tiền tệ. Lãi suất phát hành bình quân cả danh mục TPCP dự kiến năm 2023 khoảng 3,3%/năm, giảm 0,18 điểm phần trăm so với mức năm 2022 trong bối cảnh lãi suất toàn cầu vẫn duy trì xu hướng tăng.
Nợ nước ngoài giảm dần trong cơ cấu vay của Chính phủ. Danh mục nợ nước ngoài hiện hành chủ yếu vẫn là các khoản vay kỳ hạn dài, lãi suất ưu đãi; góp phần tăng tính bền vững nợ trước biến động tỷ giá của các ngoại tệ mạnh trên toàn cầu.
Việc tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch nâng hạng Việt Nam từ mức BB lên mức BB+ vào tháng 12/2023 sau khi tổ chức Moody’s và S&P nâng hạng Việt Nam từ Ba3 lên Ba2 và BB lên BB+ trong năm 2022 đều có dấu ấn từ kết quả củng cố tài khoá và kiểm soát nợ công.
Kết quả quản lý nợ công trong những năm qua là một điểm sáng trong điều hành chính sách tài khoá nói riêng và chính sách vĩ mô nói chung; được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và tổ chức quốc tế đánh giá là bền vững và tạo dư địa để thực hiện các chính sách tài khoá mở rộng, hợp lý khi cần thiết, đặc biệt là trong đợt bùng phát nghiêm trọng dịch Covid-19 vừa qua.
“Với mức nợ thấp so với trần như hiện nay và cơ cấu nợ thuận lợi sau một thời gian Bộ Tài chính tham mưu cho Chính phủ cơ cấu lại nợ công, Việt Nam có nhiều dư địa vay nợ công để triển khai vay vốn cho những dự án lớn là động lực của nền kinh tế, tạo ra hiệu quả kinh tế nhanh nhất và bền vững nhất”, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết.
Theo Bộ trưởng Hồ Đức Phớc, để đạt được kết quả như trên, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ trình Quốc hội Kế hoạch vay và trả nợ công 5 năm, quyết định các chỉ tiêu giới hạn an toàn nợ và các giải pháp chủ yếu để đạt được các mục tiêu này; đồng thời, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý nợ công. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đã phối hợp tham mưu cho Chính phủ trình Quốc hội ban hành các Luật sửa đổi bổ sung một số điều của các luật liên quan, như: Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư…, sửa đổi, bổ sung một số Nghị định hướng dẫn Luật Quản lý nợ công như Nghị định về cho vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài, quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài.
“Bộ Tài chính đã không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn vay công và cơ cấu lại nợ công. Đồng thời, linh hoạt, chủ động triển khai việc huy động vốn theo yêu cầu tiến độ giải ngân đầu tư công, theo hướng tăng các nguồn vay trong nước với lãi suất thấp, ưu đãi, thời gian vay dài, sử dụng vượt thu ngân sách để trả nợ gốc, giảm áp lực nợ công. Việc vay mới chỉ triển khai sau khi đánh giá kỹ tác động đến an toàn nợ công, chỉ sử dụng cho các công trình có hiệu quả kinh tế cao, hiệu quả xã hội cao, chỉ vay trong khả năng trả nợ”, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc thông tin.
Việt Nam nằm trong số ít các quốc gia được nâng xếp hạng tín nhiệm
Cùng với đó, Bộ Tài chính còn tích cực đẩy mạnh công tác quảng bá nhà đầu tư, triển khai có hiệu quả công tác xếp hạng tín nhiệm quốc gia, góp phần giảm chi phí huy động vốn vay của Chính phủ theo lộ trình cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia tới năm 2030. Theo đó, từ năm 2021 đến nay, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm liên tục nâng triển vọng tín nhiệm, nâng bậc tín nhiệm của Việt Nam. Đến nay, Việt Nam còn cách 2 bậc đối với thang điểm của tổ chức Moody’s; cách 1 bậc đối với thang điểm của tổ chức S&P và Fitch để đạt mức Đầu tư.
"Trong bối cảnh tình hình kinh tế tiếp tục diễn biến phức tạp, các quốc gia tiếp tục duy trì thắt chặt chính sách tiền tệ, rủi ro địa chính trị, cầu yếu, tăng trưởng chậm, năm 2023, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia đã có 34 lượt hạ bậc tín nhiệm, 38 lượt hạ triển vọng trên thế giới. Việt Nam nằm trong số ít các quốc gia được nâng xếp hạng tín nhiệm", bà Nguyễn Xuân Thảo, Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại cho hay.
Theo lãnh đạo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, việc các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia tiếp tục khẳng định xếp hạng tín nhiệm quốc gia Việt Nam với những dự báo tích cực là điểm sáng, đặc biệt, đánh giá cao về chính sách tài khóa và dư địa nợ công còn nhiều. Điều này cũng khẳng định sự tin tưởng của các tổ chức này với triển vọng phục hồi và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam trong trung hạn, góp phần quảng bá hình ảnh quốc gia, tiếp tục thu hút các nhà đầu tư quốc tế đến với Việt Nam.
Ông Andrea Coppola, Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đánh giá, Việt Nam đã có rất nhiều tiến bộ trong công tác quản lý nợ công và cũng đã có những cải cách quan trọng về quản lý nợ công bao gồm: tăng cường khung pháp lý, quản lý thể chế…
Nhiều chuyên gia kinh tế cũng nhận định, với những giải pháp mà Chính phủ đang áp dụng sẽ đảm bảo tình hình tài chính của đất nước ổn định, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, để đảm bảo nợ công được quản lý hiệu quả và bền vững trong tương lai, Việt Nam cần phải tiếp tục tăng cường quản lý nợ công và cải cách thể chế tài chính.