Thói quen sử dụng túi nilon, đồ dùng nhựa cùng với những hạn chế trong khâu tái chế, xử lý rác thải nhựa tạo ra “gánh nặng” ngày càng lớn đến kinh tế, môi trường cũng như sức khỏe của con người.
Ô nhiễm rác thải nhựa, đặc biệt là ô nhiễm rác thải nhựa đại dương đã trở thành vấn đề cấp bách toàn cầu. Ước tính khoảng 1 triệu chai nước uống bằng nhựa được mua mỗi phút, khoảng 5 nghìn tỷ túi nhựa sử dụng một lần được sử dụng mỗi năm trên toàn thế giới.
Một thống kê của Chương trình Môi trường Liên Hợp quốc - UNEP, cho biết, tổng thiệt hại kinh tế đối với hệ sinh thái biển toàn cầu do rác thải nhựa gây ra ít nhất là 13 tỷ USD mỗi năm (UNEP 2018).
Về mặt kinh tế, chỉ riêng rác thải nhựa ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã gây thiệt hại cho ngành Du lịch, đánh bắt thủy sản và vận chuyển 1,3 tỷ USD mỗi năm.
Về môi trường và sức khỏe con người, để phân hủy hoàn toàn các sản phẩm nhựa, túi nilon cần thời gian hàng trăm năm, đặc biệt là các sản phẩm nhựa thải ra đại dương có thể kéo dài hơn. Do thời gian phân hủy quá chậm, trong khi đó thời gian sử dụng lại ngắn, khả năng lưu giữ các thành phần độc hại lâu nên rác thải nhựa gây ra tác động xấu đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng, là nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm đất, nước và đại dương.
Đặc biệt, các nhà khoa học trên thế giới đã xác định được tác động của các mảnh vụn nhựa có kích thước nhỏ (vi hạt nhựa) trong môi trường đã ảnh hưởng cho ít nhất 267 loài động vật khác nhau, gây ra cái chết cho khoảng một triệu chim biển và các loại cá khác với số lượng không thể đo đếm được. Hiện nay, đã có 80 quốc gia trên thế giới đưa ra các lệnh cấm sử dụng một số sản phẩm nhựa không thân thiện với môi trường, đồng thời tăng cường xử lý, tái sử dụng và tái chế rác thải nhựa.
Việt Nam xếp thứ 20 trên thế giới về phát sinh chất thải nhựa với 3,27 triệu tấn mỗi năm và nằm trong top đầu những quốc gia có tỷ lệ chất thải nhựa được xử lý không đầy đủ, chiếm 5,76% trong tổng lượng chất thải nhựa không được xử lý đầy đủ trên toàn thế giới.
Tỷ lệ tiêu thụ chất dẻo bình quân đầu người ở Việt Nam tăng nhanh từ 3,8 kg/người năm 1990 lên 63 kg/người năm 2017, tốc độ tăng trung bình 10,6%/năm (Tạ Việt Phương 2019). Bình quân một hộ gia đình Việt Nam sử dụng 223 túi nilon/tháng, tương đương 1kg túi nilon/hộ/tháng. Các loại túi nilon được sử dụng tràn lan trong các hoạt động xã hội, chủ yếu là loại túi siêu mỏng.
Hệ quả là lượng chất thải nhựa và túi nilon ở Việt Nam hiện ở mức rất cao, chiếm khoảng 8 - 12% trong chất thải rắn sinh hoạt, ước tính lượng rác thải nhựa được tạo ra từ 1,8 - 2,8 triệu tấn/năm. Theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ riêng hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM, trung bình mỗi ngày thải ra môi trường khoảng 80 tấn nhựa và túi nilon.
Nhận diện những ảnh hưởng tiêu cực đến từ ô nhiễm rác thải nhựa, Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách, chiến lược nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường do sử dụng túi nilon, sản phẩm nhựa trong sinh hoạt, quản lý chất thải rắn. Đặc biệt, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều chính sách, chiến lược để kiểm soát ô nhiễm môi trường do sử dụng túi nilon, sản phẩm nhựa trong sinh hoạt, quản lý chất thải rắn; thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng, thúc đẩy xây dựng nền kinh tế tuần hoàn, trong đó chú trọng giảm thiểu, tăng cường tái chế, tái sử dụng, tận dụng tối đa giá trị của rác thải nhựa cho phát triển kinh tế - xã hội.
Thúc đẩy thói quen sản xuất và tiêu dùng bền vững. Toàn xã hội đồng lòng trong xác định lại giá trị, cách thức sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm nhựa. Đó là điều không thể chậm trễ, bởi lẽ, ô nhiễm rác thải nhựa, đặc biệt là ô nhiễm rác thải nhựa đại dương đã trở thành vấn đề cấp bách toàn cầu.
Theo Báo Xây dựng