Theo bà Nguyễn Cẩm Trang, Phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) thực thi đã 2 năm, nhưng để CPTPP phát huy hiệu quả hơn nữa thì vẫn còn nhiều việc phải làm. Quan trọng nhất, là các ngành hàng xuất khẩu chủ lực phải tự chủ được nguồn cung nguyên liệu.
Bà có thể khái quát, sau 2 năm thực thi CPTPP, hàng hóa Việt Nam đã gia tăng được bao nhiêu trong “miếng bánh” thị trường các nước tham gia Hiệp định?
CPTPP có hiệu lực từ tháng 1/2019 đã mở đường cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang các nước đối tác nhằm tận dụng cơ hội từ thị trường quy mô 2.500 tỷ USD này. Đến nay, ngoài Việt Nam, có 6 quốc gia phê chuẩn CPTPP là Australia, Nhật Bản, New Zealand, Singapore, Canada và Mexico. Xuất khẩu sang 6 thị trường này đạt một số kết quả đáng ghi nhận: năm 2019 đạt 34,3 tỷ USD, tăng 8,1% so với năm 2019; năm 2020 duy trì ở mức tương đương, đạt 34 tỷ USD.
Thị phần hàng hóa Việt Nam tại các nước CPTPP hiện còn ở mức thấp. Theo số liệu của Trade Map, nhập khẩu năm 2019 từ Việt Nam mới chiếm 3,1% trong tổng nhập khẩu của Nhật Bản; chiếm 1,9% ở Australia; 1,6% ở New Zealand; 1,3% ở Mexico và mới chỉ chiếm 1,1% ở thị trường Canada.
Rõ ràng, nhìn vào thị phần hàng hóa mới chỉ chiếm từ 1 đến 3%, dư địa tăng trưởng cho hàng hóa Việt Nam tại thị trường CPTPP còn rất lớn.
Một trong những chỉ dấu quan trọng trong thực thi mỗi FTA thể hiện ở tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan. Với CPTPP, doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng ưu đãi này ra sao?
Tỷ lệ sử dụng C/O mẫu CPTPP khi xuất khẩu sang các thị trường trong khối này hiện chưa cao so với tỷ lệ trung bình sử dụng C/O của tất cả các FTA. Năm 2019 là năm đầu tiên thực thi CPTPP nên chúng ta mới cấp C/O cho 600 triệu USD kim ngạch xuất khẩu trong tổng số trên 34 tỷ USD, chiếm tỷ lệ 1,67%. Năm 2020, con số cấp C/O tăng hơn 2 lần, đạt 1,37 tỷ USD, bằng 4% xuất khẩu sang 6 nước CPTPP.
Tuy vậy, nếu xét riêng 2 nước lần đầu tiên có FTA với Việt Nam là Mexico và Canada thì tỷ lệ sử dụng C/O khi xuất khẩu là khá lớn. Năm 2020, trong số 1,37 tỷ USD cấp C/O, thì trị giá C/O cấp cho hàng hóa xuất khẩu sang Mexico và Canada đã là 1,27 tỷ USD, chiếm 17% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang 2 thị trường này.
Phải chăng, tỷ lệ sử dụng C/O trong CPTPP đạt thấp là do hàng hóa Việt Nam chưa đáp ứng được các tiêu chí, quy định của CPTPP?
Thực tế, sử dụng C/O mẫu CPTPP khi xuất khẩu sang các thị trường này chưa cao một phần là do 4/6 nước đối tác đã có FTA với Việt Nam, với quy tắc xuất xứ lỏng hơn và mức thuế suất ưu đãi hơn trong những năm đầu CPTPP có hiệu lực. Trong khi đó, ở một số thị trường CPTPP, nước nhập khẩu đã và đang duy trì thuế suất ưu đãi (MFN) 0% đối với một tỷ lệ đáng kể các dòng thuế vào thời điểm CPTPP có hiệu lực, đồng nghĩa nhiều loại hàng hóa đã có thể được hưởng thuế 0%, mà không cần thiết phải xin C/O để hưởng ưu đãi theo CPTPP.
Cũng cần phải nói thêm, quy tắc xuất xứ của CPTPP phức tạp hơn so với các FTA mà Việt Nam đã tham gia. Hơn nữa, doanh nghiệp đã quen với khai C/O theo mẫu ASEAN (mẫu D) hoặc ASSEAN + (chẳng hạn như mẫu E), thì việc doanh nghiệp ít lựa chọn khai C/O theo CPTPP là điều dễ hiểu.
Một lý do rất quan trọng khác là, để được hưởng ưu đãi thuế quan theo CPTPP, thì hàng hóa phải đáp ứng được quy tắc xuất xứ nội khối, trong khi những ngành hàng được kỳ vọng gia tăng xuất khẩu là dệt may, giày dép… lại sử dụng nhiều nguyên liệu ngoại khối. Công nghiệp hỗ trợ các ngành xuất khẩu chủ lực còn yếu chính là điểm nghẽn lớn, gây khó khăn cho việc thực thi Hiệp định, thể hiện ở việc đáp ứng quy tắc xuất xứ để có ưu đãi.
Để tận dụng hiệu quả CPTPP, rõ ràng là chúng ta còn rất nhiều việc phải làm. Vậy đâu là những nhiệm vụ trọng tâm?
Để tận dụng hiệu quả cam kết thuế nhập khẩu ưu đãi từ CPTPP, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cần đáp ứng các quy tắc xuất xứ. Do đó, với dệt may, giày dép, cần đẩy mạnh đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu. Đây là bài toán dài hơi, nhưng phải có lộ trình cho việc này, nếu không sẽ khó tận dụng được dư địa tăng trưởng tại khu vực thị trường CPTPP.
Một số mặt hàng nông, thủy sản, dù đã có những cải thiện nhất định về chất lượng, nhưng chưa đồng đều, chưa đáp ứng đủ tiêu chuẩn mà các nước đối tác đặt ra thì cần tiếp tục cải thiện. Ngoài ra, công tác đào tạo, nâng cao trình độ người lao động phải được chú trọng để khắc phục việc thiếu nhân công giỏi nhằm thu hút hiệu quả những dự án đầu tư sản xuất, xuất khẩu sử dụng công nghệ cao.
Các cơ quan quản lý rà soát quy định pháp luật liên quan, cải thiện môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp. Đồng thời, tăng cường truyền thông, thông tin về thị trường, định hướng cho doanh nghiệp trong kế hoạch sản xuất, kinh doanh của mình, giúp nâng cao năng lực cho doanh nghiệp.
Đối với mỗi doanh nghiệp, cần chủ động tìm hiểu cơ hội ưu đãi trong Hiệp định, thay đổi tư duy kinh doanh, cải thiện năng lực cạnh tranh cho sản phẩm, nghiên cứu kỹ thị trường, có kế hoạch triển khai cụ thể trong lĩnh vực/ngành hàng của mình, lấy sức ép của các tiêu chuẩn cao trong CPTPP để nâng cao năng lực cạnh tranh, hình thành các chuỗi giá trị, tạo nền tảng khai thác các FTA lâu dài, bền vững./.
Theo Đầu tư