"Bài thơ của một người yêu nước mình" được sáng tác vào ngày 19 tháng 12 năm 1967, là một bài thơ điển hình cho phong cách thơ Trần Vàng Sao, đánh dấu một lối đi riêng trong hành trình nghệ thuật chung của nhiều thế hệ nhà thơ trưởng thành từ những năm kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ đã làm xúc động sâu xa trong lòng nhiều thế hệ độc giả, được bình chọn là một trong 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX (trong một cuộc thi bình chọn được phát động vào năm 2005).
Tập thơ “Bài thơ của một người yêu nước mình” của tác giả Trần Vàng Sao. Ảnh: netabook
Bài thơ ngay từ khi xuất hiện đã gây một ấn tượng mạnh, bởi trước hết đó là thi phẩm thể hiện một cách chân thành và xúc động về tình yêu nước. Đất nước, vốn là đề tài không mới trong thơ, nhất là trong thơ ca kháng chiến, trong bối cảnh cuộc kháng chiến đầy khốc liệt, vận mệnh dân tộc và nhân dân đang phải giành giữ từng khắc từng giờ, thì đó là đề tài quen thuộc và rất nóng bỏng thời sự. Nhưng Trần Vàng Sao vẫn có cách nói riêng đầy mới mẻ về một vấn đề tưởng chừng rất cũ.
Bài thơ dài 155 câu, theo lối trường ca, bằng thể thơ tự do, câu dài ngắn xen kẽ nhau như nhịp bước chân dài ngắn, thấp cao của một người đang vừa đi vừa kể vừa tâm sự về cuộc hành trình. Và quả thực, bài thơ chính là cuộc hành trình của một con người, bằng tình yêu da diết tự tâm can, đã đi trọn cùng chiều dài thẳm xa diệu huyền của đất nước.
Bài thơ dài như hành trình đó, nhưng đọc xong không thấy lê thê mỏi mệt, trước hết bởi lối kết cấu câu chữ đan xen linh hoạt. Đặc biệt là cái tứ của bài thơ: nơi gợi tứ, gợi hứng về lòng yêu nước, được sắp đặt qua hệ thống điệp khúc “Tôi yêu đất nước mình”. Nhưng cái hay ở đây là điệp mà không hoàn toàn lặp lại, mỗi lần vang lên lại mang một dáng vẻ riêng, với ý tứ, tình cảm hoàn toàn mới mẻ:
Tôi yêu đất nước này xót xa…
Tôi yêu đất nước này khôn nguôi…
Tôi yêu đất nước này như thế…
Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em…
Tôi yêu đất nước này lầm than…
Tôi yêu đất nước này chân thật…
Mỗi điệp khúc là một luận điểm, một nội hàm khác nhau khi nhà thơ lặng ngẫm về tình yêu nước của chính mình. Bài thơ dẫn dắt người đọc đi qua từng không gian - thời gian, từng trạng thái tình cảm và hoài niệm đẹp.
Luận điểm đầu tiên “Tôi yêu nước mình như thế”, tình yêu nước gắn liền với ký ức tuổi thơ ở miền quê nghèo dân dã mà tươi vui, gắn với âm thanh của bầy chim sẻ thơ ngây, hình ảnh cánh đồng ngập tràn hoa bưởi hoa ngâu và bông nứa trắng, ướp trong mùi hương nồng dịu của thóc khô sau mùa gặt. Và trong cõi thâm u nhất của khu vườn tuổi thơ tuơi đẹp đó, dần hiện lên bóng dáng thân thương nhất: Mẹ. Đó là người mẹ của chủ thể trữ tình “goá bụa khi mới 50”, nhưng là điển hình cho bao người mẹ Việt tảo tần “áo rách” và thương con vô bờ bến, thầm lặng hy sinh nhận gánh nỗi đau riêng mình “đêm nào cũng khóc”. Đó là người mẹ cần lao chung số phận buồn cùng đất nước oằn mình trong chiến tranh, khổ nghèo, mất mát, chia ly. Âm thanh, màu sắc hòa lẫn cùng mùi vị, thiên nhiên tươi đẹp nên thơ nhuốm vẻ khốn khó của con người… tất cả quyện vào nhau trong một bức tranh chung, là sự hiện hữu rõ ràng đến gần tuyệt đối của một ký ức tưởng đã quá xa vời. Chính vì sự trộn lẫn nhoè mờ của những mảng màu đối lập trong miền ký ức đó, mà khởi nguồn và cũng là xâu chuỗi của tứ thơ, của cảm xúc về đất nước là nỗi niềm bi cảm, vừa hào sảng vừa cay đắng, xót xa: “Tôi yêu đất nước mình cay đắng, Tôi yêu đất nước mình xót xa” và đó là thứ tình cảm thường trực, day dứt tâm can: “Tôi yêu đất nước này khôn nguôi”.
Nhưng điều đáng nói ở đây không phải là thứ tình yêu bi luỵ, mà chính tình yêu nước cay đắng xót xa đó là nguồn sức mạnh để nhân vật "tôi" tiếp tục cuộc hành trình, một cuộc hành trình đầy giông bão suốt dặm dài sông núi:
Tôi bước đi
Mưa mỗi lúc mỗi to
Sao hôm nay lòng thấy chật
Như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc
Từ tình yêu quê hương tuổi thơ gắn với bao tủi buồn, thương xót, tác giả đã hướng ra đường chân trời của suy tư và khát vọng. Ký ức càng buồn tủi bao nhiêu thì khát vọng con người, khát vọng tương lai càng mãnh liệt chừng ấy. Mỗi bước đi, non sông gấm vóc mở ra rộng dài, chủ thể trữ tình nhìn lại khu vườn xưa lại thấy chật hẹp với biết bao điều chưa cắt nghĩa được. Đây không gì khác hơn là chiều kích của sự trưởng thành – trong cả tâm hồn lẫn nhận thức, tư duy.
Bởi thế cho nên, trong những khổ thơ tiếp theo, hình tượng đất nước và tình yêu nước không chỉ gắn với những gì “lầm than”, những con người đói rách, với cuộc sống khổ nghèo “Ăn rau rìu rau éo rau trai”, "Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió ", “bốn ngàn năm nằm gai nếm mật”, những “người mẹ vọng phu”, những “cầu ái tử”… mà còn gắn liền với bao nghĩa tình tha thiết từ lòng tri ân nguồn cội, biết yêu thương chia sẻ trong gian khó, và cuộc đời dù đã từng “cúi thấp” vẫn ấp ủ ước mơ oai hùng mang tầm Phù Đổng. Tận cùng sâu thẳm nỗi đau chia cắt là sự thăng hoa của khát vọng chiến đấu và chiến thắng: "Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ. Một tiếng nói cũng đẩy hồn Thánh Gióng".
Tình yêu nước phải đồng nghĩa với sự đấu tranh để giành lại sự thống nhất, độc lập, tự do; để được hạnh phúc, để Nam Bắc một nhà. Từ chân trời của quê hương, của một người phải ra đi đến với chân trời của Tổ quốc. Trong cuộc hành trình đó, khi đã đi qua những ký ức buồn vui, "tôi" gặp được nhiều người “chưa biết chưa quen” nhưng lại gặp nhau trong tình đồng chí, đồng bào cao cả. Hoàn toàn là “người lạ”, nhưng lại cùng chung cảnh ngộ, cùng chung nỗi đau nước mất nhà tan, cùng khát vọng hoà bình, thống nhất để được sống cuộc sống bình dị, đời thường nhưng xứng đáng. Đó là khát vọng cháy bỏng, vừa chân thật vừa cao cả, linh thiêng, đưa con người vụt lớn lên, vượt ra khỏi cái chật hẹp của nỗi đau thân phận, trở thành con người với tất cả giá trị đẹp đẽ nhất của nó.
Thấp thoáng trong cuộc hành trình vạn dặm, cùng với tuổi thơ, quê hương, với người mẹ…, những người chưa biết chưa quen là bóng hình “em”. Em gắn liền với những năm tháng hoa niên rung động đầu đời trong trẻo như “áo trắng học trò” nhưng không kém phần diết da nồng cháy như “chùm phượng đỏ”. Trái hẳn với người mẹ hay lén khóc thầm, Em hồn nhiên hay cười hay nói “mà không biết người khác buồn”, em chưa buồn vì cuộc đời “chưa rách áo”. Tôi không trách em, mà trái lại vẫn mong “tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan”. Có lẽ vì tuổi thơ đó của em chính là ký ức trong trẻo, cũng là những gì lạc quan nhất trong cõi tâm hồn tôi, như tia nắng ấm nồng giữa cõi đời mưa gió, để nhớ, để yêu và để tôi vững tin bước tiếp về phía trước.
Bài thơ là cuộc hành trình đặc biệt trong đó chủ thể trữ tình đã đi từ tuổi thơ ngây đến bước trưởng thành, từ cái nhỏ bé chật hẹp đến cái rộng lớn bao la, từ cái gần gũi đến cái cao xa rộng lớn, từ đơn độc đến đông vui, từ bi cảm đến lạc quan và khát vọng… Trong cuộc hành trình đó, tôi đã sống, đã yêu, đã đau khổ và hy vọng, đã nhận ra những gì chân ái của đời mình, và đó không phải là cuộc độc hành, bởi sóng bước cùng tôi luôn là những người thân yêu, những người cùng lý tưởng... Trong cuộc hành trình đó, cái tôi không nhỏ bé, cúi đầu mà kiêu hãnh buóc đi, bởi luôn mang theo bóng hình đất nước, mỗi bước đi chính là mỗi bước của lịch sử, của dân tộc bi tráng, hào hoa.
Sự hoà quyện giữa hình tượng đất nước (điều cao cả, linh thiêng) với hình ảnh người mẹ, người thân trong gia đình, người yêu và quê hương khốn khó cùng khát vọng độc lập, tự do và khát vọng làm người chân chính (những điều giản dị, gần gụi, đời thường) đã làm nên vẻ đẹp độc đáo cho bài thơ. Trần Vàng Sao đã mang đến một thứ keo sơn kỳ lạ để kết nối những bình diện tưởng chừng xa lạ và đối lập đó để chúng hoà vào nhau, tô điểm cho nhau. Nhờ sự hoà quyện này, tình yêu nước không còn xa vời, cao siêu mà trở nên gần gũi, dễ hiểu, dễ đạt tới…, còn những tình cảm vốn có của cá nhân riêng tây của mỗi người lại vụt lớn lên mang tầm vóc thời đại. Đó là sự hoà quyện mang tính biện chứng, mang tầm triết lý sâu xa và hiển nhiên: khi và chỉ khi con người biết gắn bó, yêu thương những gì gần gũi xung quanh thì mới có thể làm một công dân yêu nước, và tình yêu nước chỉ thực sự nồng nàn, làm nên sức mạnh để con người chiến đấu, hy sinh khi gắn với những gì gần gũi, máu thịt đời thường như cha mẹ, như người yêu, như quê hương xứ sở…
Bài thơ ra đời đã hơn nửa thế kỷ, cha đẻ của nó cũng đã từ giã cõi đời, nhưng tâm tình của thi nhân vẫn còn không thôi lay động, bởi nó chạm đến thế giới tình cảm vừa đời thường vừa cao cả của mỗi một con người. Giản dị nhưng duyên dáng như lời tình tự, bài thơ đã gợi cho mỗi con người, nhất là người trẻ tuổi một khát vọng, nhiệt huyết và tình yêu, để ta sống một cuộc đời ý nghĩa, xứng đáng. Cái hay, cái đẹp, cái cuốn hút kỳ lạ của bài thơ cũng chính là ở đó.
Quang Hoa