- Chưa làm rõ nhận thức chung về mối quan hệ giữa nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân. Chưa làm rõ các thành tố và mối quan hệ giữa các thành tố trong nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân; đặc thù cơ bản của nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh khác với nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân. Chưa thống nhất về chủ thể nòng cốt là Công an nhân dân hay Công an nhân dân và Quân đội nhân dân trong xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân trong các văn kiện của Đảng và quy định của pháp luật.
Mặc dù thống nhất về cơ bản bản chất của thế trận an ninh nhân dân là tổ chức, bố trí lực lượng, phương tiện nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để chủ động bảo vệ an ninh, trật tự, tuy nhiên vẫn còn những quan điểm khác nhau khi diễn giải khái niệm: là hình thái, hay là hoạt động, là việc tổ chức lực lượng, phương tiện...
- Chưa thống nhất phạm vi xây dựng thế trận an ninh nhân dân, nhất là theo địa bàn, mục tiêu, tuyến, lĩnh vực. Có ý kiến cho rằng chỉ xây dựng từ địa bàn cấp tỉnh trở lên; có ý kiến đồng nhất thế trận an ninh nhân dân với thế trận của lực lượng nghiệp vụ hoặc đồng nhất xây dựng thế trận với xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc...
- Chưa phân định rõ xây dựng nền an ninh nhân dân và xây dựng thế trận an ninh nhân dân. Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Điều 16 - Luật An ninh quốc gia năm 2004 gộp chung quy định về xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân: (1) Vận động toàn dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc; giáo dục, động viên cán bộ, công chức, người lao động và mọi công dân tham gia xây dựng địa phương, cơ quan, tổ chức vững mạnh; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. (2) Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, kế hoạch bảo vệ an ninh quốc gia gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại và kết hợp chặt chẽ với xây dựng nền quốc phòng toàn dân. (3) Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia; xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bảo vệ an ninh quốc gia. (4) Xây dựng lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia vững mạnh; xây dựng các phương án và tổ chức, bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để chủ động bảo vệ an ninh quốc gia trong mọi tình huống.
Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trên là do chưa có sự quan tâm tổng kết thực tiễn về xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân. So với nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân đã có bề dày lý luận, việc tổ chức nghiên cứu lý luận về xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân còn ít, chưa bài bản. Bảo vệ Tổ quốc trong văn kiện của Đảng và bảo vệ an ninh quốc gia trong văn bản pháp luật vốn là hai khái niệm gốc nhưng nhưng chưa phân biệt rõ nội hàm.
Việc chưa thống nhất về chủ thể nòng cốt là do việc chủ trì thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân trên một số địa bàn, lĩnh vực còn có sự chồng chéo giữa hai lực lượng Công an và Quân đội. Việc tổ chức một số lực lượng Công an, Quân đội chưa phù hợp với chủ trương kiện toàn tổ chức: một lực lượng có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ, nhưng một nhiệm vụ chỉ một lực lượng chủ trì và chịu trách nhiệm chính (còn tiếp)
TAV