Lãi suất tăng cao, lạm phát ngoài tầm kiểm soát, các vấn đề về chuỗi cung ứng diễn ra bắt nguồn từ đại dịch COVID-19, khủng hoảng năng lượng, xung đột Nga - Ukraine và các sự kiện địa chính trị khác… là những chủ đề chính trong năm 2022 và có thể sẽ tiếp diễn vào năm 2023.
Trước bối cản đó, có nhiều dự báo không mấy lạc quan về triển vọng đối với tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong thời gian tới. Tuy nhiên, vẫn có một số nhà phân tích bày tỏ hy vọng về những cải thiện trong nền kinh tế thế giới vào năm 2023.
Với nhu cầu tiêu dùng bùng nổ hậu đại dịch COVID-19, hàng tồn kho bán lẻ tăng cao và cuộc chiến chống lạm phát tiếp tục đè nặng lên tăng trưởng vào năm 2023, Morgan Stanley (ngân hàng đầu tư lớn nhất của Mỹ) mới đây tin rằng tăng trưởng GDP toàn cầu sẽ chỉ đạt mức 2,2%, thấp hơn mức tăng trưởng 3% dự kiến cho cả năm 2022.
Kinh tế thế giới đối mặt nhiều khó khăn trong năm 2023. (Ảnh: Getty)
Theo Morgan Stanley, lạm phát toàn cầu dự kiến sẽ đạt đỉnh vào quý 4/2022. Trên thực tế, nhu cầu chậm lại, giá hàng tồn kho và giá nhà đất giảm, cùng với các yếu tố khác, sẽ giúp kiềm chế lạm phát. Điều này sẽ thúc đẩy các ngân hàng trung ương lớn tạm dừng tăng lãi suất và đánh giá lại chuỗi tăng lãi suất liên tục như thời gian qua.
Theo các chuyên gia kinh tế từ Morgan Stanley, tác động qua lại của lạm phát và sự can thiệp của ngân hàng trung ương sẽ định hình câu chuyện tăng trưởng kinh tế cho năm 2023.
Nhà kinh tế trưởng toàn cầu Seth Carpenter của Morgan Stanley cho biết: “12 tháng qua đã chứng kiến mức tăng nhanh nhất của lãi suất liên bang Mỹ kể từ năm 1981, cũng như mức tăng nhanh nhất của lãi suất Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) kể từ khi thành lập khu vực đồng tiền chung châu Âu”.
Tuy nhiên, chuyên gia kinh tế Seth Carpenter cho rằng “khi chuỗi cung ứng hàng tiêu dùng phục hồi và thị trường lao động dẫn ổn định, có thể lạm phát giảm mạnh hơn và rộng hơn. Điều này mở ra cơ hội cho thực thi chính sách, thúc đẩy tăng trưởng cao hơn trên phạm vi toàn cầu”.
Trở lại vào tháng 7, Pierre-Olivier Gourinchas, cố vấn kinh tế và giám đốc nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), cảnh báo triển vọng của nền kinh tế toàn cầu đã “trở nên u ám đáng kể kể từ tháng 4” do sự tác động từ xung đột Nga - Ukraine, khiến các quốc gia Liên minh châu Âu (EU) và Mỹ thắt chặt chính sách tiền tệ, trong khi tăng trưởng kinh tế Trung Quốc suy giảm do chính sách “Zero COVID” của nước này.
Hồi tháng 10, IMF đã hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu trong năm tới xuống 2,7% , giảm từ mức 6% vào năm 2021, đồng thời cảnh báo “điều tồi tệ nhất vẫn chưa đến” và đối với nhiều người, năm 2023 sẽ “là một cuộc suy thoái”.
Ngân hàng Thế giới (WB) hồi tháng 6 dự báo tăng trưởng toàn cầu sẽ giảm xuống mức 2,9% vào năm 2022 và duy trì ở mức đó cho đến năm 2023 và 2024. Nguyên nhân được cho là do tác động từ xung đột Nga vào Ukraine, “làm gián đoạn hoạt động, đầu tư và thương mại, cũng như việc điều chỉnh chính sách tài khóa và tiền tệ của các nước thời gian tới”.
Trong khi đó, OECD hồi tháng 9 dự báo kinh tế thế giới sẽ chỉ tăng trưởng 3% trong năm nay, trước khi giảm xuống chỉ còn 2,2% vào năm 2023.
S&P Global Market Intelligence dự báo, châu Á - Thái Bình Dương sẽ dẫn đầu tăng trưởng kinh tế toàn cầu vào năm 2023. Theo S&P Global, khu vực này sẽ đạt mức tăng trưởng thực tế khoảng 3,5% vào năm 2023, trong khi châu Âu và Mỹ có thể sẽ phải đối mặt với suy thoái.
“Châu Á - Thái Bình Dương, nơi tạo ra 35% GDP thế giới, sẽ có mức tăng trưởng toàn cầu mạnh vào năm 2023. Điều này được hỗ trợ bởi các hiệp định thương mại tự do khu vực, chuỗi cung ứng hiệu quả và chi phí cạnh tranh”, S&P Global cho biết.
Ấn Độ được dự đoán trở thành nền kinh tế lớn thứ ba toàn cầu. (Ảnh minh họa)
Trong khi triển vọng tiêu cực bên ngoài châu Á - Thái Bình Dương phủ bóng đen lên toàn bộ nền kinh tế toàn cầu, S&P Global dự báo thế giới có thể sẽ tránh được suy thoái kinh tế hoàn toàn. Sara Johnson, giám đốc điều hành bộ phận nghiên cứu kinh tế của S&P Global, cho biết: “Với mức tăng trưởng vừa phải ở châu Á - Thái Bình Dương, Trung Đông và châu Phi, nền kinh tế thế giới có thể tránh được suy thoái, nhưng tốc độ tăng trưởng sẽ ở mức tối thiểu”.
Tại Trung Quốc, phục hồi tiêu dùng cá nhân có thể dẫn đến sự phục hồi của nền kinh tế trong năm tới. Nhà kinh tế trưởng thị trường Trung Quốc của Morgan Stanley - Robin Xing, cho biết: “Chúng tôi dự báo mức tăng trưởng 5% vào năm 2023, trong đó phần lớn sẽ đến vào nửa cuối năm, khi nền kinh tế dự kiến sẽ mở cửa trở lại hoàn toàn sau khi bỏ chính sách ‘Zero COVID’ vào đầu năm”.
Điều này thể hiện sự cải thiện đáng kể so với dự báo tăng trưởng 3,2% của Trung Quốc năm 2022. Đây là mức giảm mạnh so với mức tăng trưởng trung bình trong thập kỷ qua của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới.
Morgan Stanley dự báo tăng trưởng GDP của Nhật Bản trong năm 2023 ở mức 1,2%. Nhà kinh tế trưởng về thị trường Nhật Bản của Morgan Stanley - Takeshi Yamaguchi cho biết: “Các hộ gia đình nắm giữ tiền mặt và tiền gửi dư thừa đáng kể sẽ hỗ trợ tăng trưởng trong năm tới".
Trong khi đó, Ấn Độ được xem sẽ là điểm sáng tăng trưởng GDP ở khu vực. Tăng trưởng kinh tế của nước này được dự báo sẽ ở mức 6,2% vào năm 2023 và 6,4% vào năm 2024. Điều này được củng cố bởi cơ sở hạ tầng kỹ thuật số tiên tiến đang đưa Ấn Độ vào con đường vượt qua Nhật Bản và Đức và trở thành quốc gia hàng đầu thế giới.
Nhà kinh tế trưởng thị trường Ấn Độ của Morgan Stanley - Upasana Chachra cho biết: “Ấn Độ có các điều kiện sẵn sàng cho sự bùng nổ kinh tế, được thúc đẩy bởi hoạt động đầu tư vào sản xuất và chuyển đổi năng lượng”.
Tăng trưởng kinh tế trong năm tới sẽ không chỉ giới hạn ở các nền kinh tế lớn nhất châu Á. Nhiều quốc gia trong khu vực đã sẵn sàng cho tăng trưởng trong năm 2023 và điều đó có thể tác động tích cực đối với phần còn lại của kinh tế thế giới.
Quá trình bình thường hóa sau đại dịch COVID-19 nhanh chóng ở châu Á có thể thúc đẩy nhiều làn sóng: Thúc đẩy nhu cầu xuất khẩu ở châu Âu; cải thiện chuỗi cung ứng và mang đến “liều thuốc giải độc” cho lạm phát; và cho phép các thị trường mới nổi thoát khỏi chu kỳ bị chi phối bởi sức mạnh của đồng USD.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thường được sử dụng để đánh giá quy mô nền kinh tế của một quốc gia. Theo đó, Mỹ với GDP hơn 24 nghìn tỷ USD, là quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới, theo sát là Trung Quốc với GDP 18,46 nghìn tỷ USD và Nhật Bản với GDP 5,38 nghìn tỷ USD.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa Mỹ là nền kinh tế ổn định, với việc nước này đang phải vật lộn với khoản nợ công khoảng 30,9 nghìn tỷ USD và mức thâm hụt 1,37 nghìn tỷ USD trong năm tài chính 2022, trong khi hàng tỷ USD “bơm” để hỗ trợ cho nền kinh tế vẫn chưa được giải ngân để sử dụng.
Giá cả các mặt hàng tăng vọt ở Mỹ trong năm 2022. (Ảnh: CNBC)
Mọi sự chú ý đều đổ dồn vào giá tiêu dùng của Mỹ, hiện tăng 8,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Thế nhưng, giá tiêu dùng ở Mỹ vào cuối năm 2023 được dự báo sẽ chỉ ở mức 2,4%.
Sự kết hợp giữa tăng trưởng chậm lại và lạm phát hạ nhiệt có thể sẽ khiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) hạn chế tăng lãi suất. “Chúng tôi kỳ vọng mức lãi suất cao nhất sẽ ở trong khoảng từ 4,5% đến 4,75% vào tháng 1/2023, giữ ở mức đó cho đến năm 2023 và sau đó giảm dần vào năm 2024", nhà kinh tế trưởng về thị trường Mỹ của ngân hàng Morgan Stanley, Ellen Zentner cho biết.
Lãi suất tăng cũng gây thiệt hại cho người tiêu dùng và doanh nghiệp, mặc dù Chủ tịch FED Jerome Powell nói rằng tốc độ tăng lãi suất có thể giảm ngay sau tháng 12. Tuy nhiên, ông cảnh báo chính sách đó có thể sẽ phải được duy trì chặt chẽ trong một thời gian để khôi phục sự ổn định về giá cả.
Trong khi đó, Morgan Stanley dự kiến nền kinh tế khu vực đồng euro sẽ giảm 0,2% vào năm 2023 do khủng hoảng năng lượng đang diễn ra và chính sách tiền tệ thắt chặt. Lạm phát vốn đã tăng kỷ lục, ở mức 10,7% hàng năm vào tháng 10, dự kiến sẽ vẫn cao hơn nhiều so với mục tiêu trong thời gian còn lại của năm 2022 cũng như năm 2023.
Jens Eisenschmidt, nhà kinh tế trưởng thị trường châu Âu của ngân hàng Morgan Stanley cho biết: “Chúng tôi cho rằng, do lo ngại lạm phát, Trung tâm hỗ trợ châu Âu sẽ tăng lãi suất lên 2,5% trong quý đầu tiên của năm 2023 trước khi bắt đầu cắt giảm lãi suất vào đầu năm 2024”. Morgan Stanley dự đoán GDP trong khu vực đồng euro sẽ đạt mức tăng trưởng 0,9% vào năm 2024.
Về mặt tích cực, tỷ lệ thất nghiệp của khu vực đang ở mức thấp kỷ lục 6,6%, việc làm và số giờ làm việc cao hơn mức cuối năm 2019 và tỷ lệ tham gia thị trường lao động cao hơn so với trước cuộc khủng hoảng năng lượng. Mặc dù thị trường lao động có thể suy yếu, song tỷ lệ gia tăng thất nghiệp có thể ở mức vừa phải.
Trong khi đó, nền kinh tế Anh tăng trưởng 7,5% năm 2021 và ước tính 4,2% vào năm 2022. Giờ đây, do lạm phát tăng lên 2 con số, dự kiến tăng trưởng nước này sẽ giảm còn 1,5% vào năm 2023. Đây là mức giảm tốc kinh tế lớn nhất trong các nền kinh tế lớn. Do đó, Ngân hàng Trung ương Anh có khả năng sẽ kết thúc đợt tăng lãi suất ở mức 4% và tiếp bước FED cắt giảm lãi suất vào đầu năm 2024.
Nguồn: vtc.vn