Lợi ích dân tộc vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính giai cấp, là yếu tố, là động lực thúc đẩy tư duy và hành động của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trong nội bộ các quốc gia đa tộc người, mỗi tộc người dần hài hòa về mặt lợi ích đảm bảo sự phát triển bền vững trong sự thống nhất với lợi ích của dân tộc - quốc gia
Bảo đảm lợi ích dân tộc có vai trò hết sức quan trọng trong bảo đảm sự ổn định, hòa bình và phát triển bền vững của các quốc gia, dân tộc trên toàn cầu. Trong suốt quá trình cách mạng, nhất là từ thời kỳ Đổi mới (1986) đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trong quan hệ giữa dân tộc Việt Nam với các quốc gia - dân tộc khác và trong giải quyết vấn đề quan hệ dân tộc trong nước.
Trong mối quan hệ với quốc gia - dân tộc khác, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thực hiện nhất quán nguyên tắc “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết”; giữ vững “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa”; tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia - dân tộc khác, tôn trọng luật pháp quốc tế và đề cao vai trò của các tổ chức quốc tế với trung tâm là Liên Hợp Quốc (UN) vì hòa bình thế giới, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn sẵn sàng và chủ động thiết lập mối quan hệ với các quốc gia - dân tộc khác; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh, kinh tế song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp Quốc, bình đẳng và cùng có lợi. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương, khu vực và toàn cầu; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác khác
Hiến chương Liên Hợp Quốc, các quy định quốc tế, chế định và nguyên tắc của các tổ chức quốc tế như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), là cơ sở để đảm bảo sự bình đẳng và điều hòa lợi ích giữa các quốc gia - dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế và sự đồng thuận. Các tổ chức khu vực, liên khu vực cũng giúp điều hòa lợi ích của các quốc gia - dân tộc trong khu vực và giữa các khu vực trên toàn cầu.
Trong bối cảnh hiện nay trật tự thế giới đang có những diễn biến mới, có sự đan xen giữa các nhân tố cũ - mới; sự trở lại của chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi ở nhiều khu vực trên thế giới. Luật pháp quốc tế đang đứng trước thách thức trước Do vậy, lợi ích quốc gia - dân tộc của các quốc gia đang phát triển chỉ có thể được bảo đảm trong một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ quốc tế và đa phương hóa, đa dạng hóa. Đồng thời, tôn trọng và bảo vệ luật pháp quốc tế cũng chính là nhằm bảo đảm cho lợi ích của quốc gia - dân tộc mình.
Là một quốc gia - dân tộc đa tộc người, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách của cách mạng Việt Nam. Một trong những yếu tố cơ bản để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc chính là bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các dân tộc - tộc người ở Việt Nam. Đảng khẳng định rõ nguyên tắc các dân tộc Việt Nam, trong 54 dân tộc anh em, tất cả đều có quyền bình đẳng như nhau, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam ghi nhận, bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Các chủ trương, chính sách dân tộc ngày càng hoàn thiện để “phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta”.
Các chính sách dân tộc tập trung phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số.
Từ những chủ trương, chính sách ngày càng được hoàn thiện, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đầu tư cho sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục cho các vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Các dân tộc thiểu số được tạo điều kiện tham gia hệ thống chính trị, quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Quyền tiếp cận giáo dục của các dân tộc thiểu số được bảo đảm. Người dân tộc thiểu số được chăm sóc sức khỏe, đảm bảo an sinh xã hội, văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy.
Với người Việt Nam ở nước ngoài, Đảng và Nhà nước ta xác định đây là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại. Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc.
Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc là quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam từ thời kỳ Đổi mới đến nay. Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, đây là nguyên tắc “bất biến” trong xử lý các vấn đề đối nội và đối ngoài, để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa; xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần tích cực vào xây dựng một thế giới hòa bình, độc lập, tự do và phát triển bền vững./.
N.G.H