Những nhận thức lệch lạc về vai trò của trí thức biểu hiện cụ thể là:
Thứ nhất, đề cao quá vai trò của trí thức.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển dựa trên ba trụ cột cơ bản: công nghệ sinh học, vật lý và kỹ thuật số. Cuộc cách mạng này đã buộc các quốc gia phải đổi mới cơ cấu kinh tế từ phát triển theo bề rộng sang phát triển theo chiều sâu. Năng lực sáng tạo của con người trở thành nguồn lực quan trọng nhất quyết định hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước và của mỗi địa phương. Và như vậy, vai trò của đội ngũ trí thức lại càng quan trọng. Đội ngũ trí thức, nhất là các trí thức trong lĩnh vực khoa học, công nghệ đóng vai trò động lực, đi đầu trong việc nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ; tiếp nhận và chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Chính từ đây, một số người cho rằng, trong Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đội ngũ trí thức giữ vai trò lãnh đạo chứ không phải là giai cấp công nhân.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ trí thức trẻ Việt Nam tại Pháp (tháng 3-2018). Ảnh: Internet.
Theo quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, hoạt động sản xuất vật chất có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vì vậy, lực lượng sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định. Để một giai cấp có thể trở thành giai cấp lãnh đạo thì giai cấp đó phải có đầy đủ các điều kiện: đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, có hệ tư tưởng riêng, có khả năng tập hợp lực lượng cách mạng và có chính Đảng lãnh đạo (điều kiện thứ tư xuất hiện từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời). Trong các giai cấp, tầng lớp của xã hội chỉ có giai cấp công nhân mới có đầy đủ các điều kiện đó.
Đội ngũ trí thức là những người sản xuất tinh thần là chủ yếu. Hơn nữa, trí thức không có phương thức sản xuất riêng và địa vị kinh tế, xã hội độc lập nên trí thức cũng không có hệ tư tưởng độc lập.
Như vậy, trong Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư chỉ có giai cấp công nhân mới có đủ các điều kiện để trở thành giai cấp lãnh đạo chứ không phải là đội ngũ trí thức.
Thứ hai, hạ thấp vai trò của trí thức.
Thực tế là, trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, đội ngũ trí thức Việt Nam bên cạnh những mặt tích cực còn tồn tại một số hạn chế, như: việc huy động tiềm năng, thế mạnh của đội ngũ trí thức đóng góp vào quá trình phát triển đất nước vẫn còn thấp so với yêu cầu; vẫn còn một bộ phận trí thức chưa ý thức thực sự đầy đủ về trách nhiệm và bổn phận trước đất nước và dân tộc; những đóng góp của trí thức khoa học - công nghệ vẫn chưa đáp ứng giải đáp kịp thời nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra, chưa thực sự trở thành động lực quan trọng cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Ngoài ra, số lượng chuyên gia đầu ngành chưa nhiều; các tập thể khoa học mạnh, có uy tín ở khu vực và quốc tế còn ít; số công trình nghiên cứu được công bố ở các tạp chí có uy tín trên thế giới, số sáng chế được đăng ký quốc tế còn khiêm tốn. Mặt khác, trình độ ngoại ngữ, năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức tại các cơ sở giáo dục và đào tạo, cơ quan nghiên cứu còn hạn chế. Một bộ phận trí thức tinh thần trách nhiệm, tính gương mẫu chưa cao, có biểu hiện lệch lạc về quan điểm. Nhiều sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh được đào tạo ở nước ngoài sau khi tốt nghiệp không muốn về nước làm việc. Sinh viên các tỉnh tốt nghiệp tại các thành phố lớn như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh không muốn trở về phục vụ quê hương. Số trí thức chưa có việc làm còn nhiều.
Chính vì những hạn chế nêu trên, có quan điểm cho rằng, đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay chưa xứng tầm với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thậm chí còn cho rằng, kinh tế Việt Nam tụt hậu có nguyên nhân chính từ đội ngũ trí thức (?!).
Thực tế, cần đánh giá khách quan hơn về vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay trên cơ sở những thành tựu mà đội ngũ này đã đạt được. Tuy nhiên, những ý kiến nêu trên cũng đang đặt ra những vấn đề cần nhìn nhận đúng hơn trong việc xây dựng đội ngũ trí thức thực sự đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới.
Thứ ba, không thừa nhận vai trò của trí thức trong việc tham gia phản biện xã hội.
Có một số nghiên cứu cho rằng, ở Việt Nam không tồn tại tầng lớp trí thức “theo đúng nghĩa của từ này”. Vì họ cho rằng, đội ngũ trí thức là một tầng lớp xã hội độc lập về mặt tư tưởng, không chịu chi phối của một ý thức hệ cụ thể nào. Do vậy, ở Việt Nam chỉ tồn tại đội ngũ trí thức đúng theo nghĩa này ở giai đoạn từ đầu đến giữa thế kỷ XX (?!). Theo các ý kiến này, người trí thức chỉ có thể thực sự thực hiện được vai trò phản biện xã hội nếu được tự do tuyệt đối trong tư tưởng (?!).
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại buổi lễ tôn vinh trí thức khoa học và công nghệ tiêu biểu năm 2022. Ảnh: TTXVN.
Thực tế cho thấy, Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng các ý kiến phản biện của các trí thức. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X (2008) về Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khẳng định: “Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi và xây dựng cơ chế hoạt động, tổ chức nhiều diễn đàn để khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của trí thức khi tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định các chủ trương, chính sách, các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Phê phán và xóa bỏ sự coi nhẹ, thành kiến và quy chụp đối với những ý kiến phản biện mang tính xây dựng” như là một nhiệm vụ quan trọng để hoàn thiện đội ngũ trí thức.
Gần đây, dự thảo Hiến pháp và dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng đều được đưa ra lấy ý kiến đóng góp, phản biện của các tầng lớp nhân dân và nhất là ý kiến của đội ngũ trí thức. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Thật sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức”[1].
Như vậy, có thể nói chủ trương của Đảng và Nhà nước là kiến tạo những điều kiện thuận lợi nhất để hình thành đội ngũ trí thức đúng theo quan điểm phổ quát của xã hội cận, hiện đại để làm nền tảng phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Để có thể định hướng nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của trí thức, phát triển đội ngũ trí thức và phát huy vai trò của trí thức trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước cần thực thi một số biện pháp cơ bản sau:
Một là, làm tốt công tác tư tưởng để toàn xã hội hiểu đúng và đề cao vai trò của trí thức, để đội ngũ trí thức nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình đối với đất nước, dân tộc, đoàn kết phấn đấu, lao động sáng tạo, hoàn thành tốt trọng trách trong thời kỳ mới. Hình thành ý thức và tâm lý xã hội tôn trọng, tôn vinh trí thức, coi "hiền tài là nguyên khí của quốc gia", phát huy truyền thống "tôn sư trọng đạo".
Hai là, đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với trí thức và tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới.
Ba là, phát huy tài năng và trọng dụng, đãi ngộ thoả đáng đối với những trí thức có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là những nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng.
[1]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG-Sự thật, 2021, tập 1, tr.167.
Thái Hoàng