Những năm gần đây, nhiều hãng thông tấn, báo chí nước ngoài và không ít trang web trong và ngoài nước rêu rao rằng: ở Việt Nam “Không có tự do ngôn luận, tự do báo chí”, “Việt Nam kiểm soát và bóp nghẹt quyền tự do báo chí, tự do internet”… Vừa qua, Ủy Ban bảo vệ ký giả[1]đã ra báo cáo cho rằng Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia kiểm duyệt bảo chí nhiều nhất. Trước thông tin ấy, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao nước ta khẳng định: "Chúng tôi hoàn toàn bác bỏ những nội dung sai sự thật dựa trên những thông tin không chính xác, thiếu khách quan về tình hình Việt Nam trong báo cáo nói trên”[2].
Trong bài viết này, chúng tôi phân tích làm sáng tỏ nội dung trên và một lần nữa khẳng định rằng: Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do báo chí. Điều đó đã được khẳng định, quy định chặt chẽ trong hệ thống pháp luật cũng như trong đời sống thực tiễn của đất nước Việt Nam.
Trước hết, về hệ thống pháp luật: Việt Nam thừa nhận quyền tự do báo chí đã được quy định trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948), Công ước Liên hợp quốc về quyền dân sự, chính trị (1966), đồng thời căn cứ vào thực tiễn đất nước đã cụ thể hóa thành những quy định trong hệ thống luật pháp Việt Nam.
Các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến nay đều có những quy định về tự do báo chí và khẳng định tự do báo chí là một quyền cơ bản của con người, của công dân. Hiến pháp năm 1946, tại Điều 10 quy định: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp…”.
Các bản Hiến pháp của nước ta sau đó đều khẳng định và bổ sung nội hàm tự do báo chí; đồng thời, gắn quyền lợi và trách nhiệm công dân của đội ngũ nhà báo.
Luật Báo chí (sửa đổi năm 2016, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017)
Điều 25, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Để cụ thể và đảm bảo cho quyền được thông tin, tự do báo chí của mọi công dân được thực thi trong cuộc sống theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Báo chí năm 1989 (được sửa đổi, bổ sung năm 1999 và năm 2016).
Chính phủ và các Ban, Bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương đã ban hành nhiều quyết định, nghị định, thông tư, quy chế,... về định kỳ thông tin với Nhân dân và báo chí tình hình mọi mặt của đất nước, tạo hành lang pháp lý cho báo chí Việt Nam phát triển, người làm báo tự do tác nghiệp trong khuôn khổ pháp luật, hoà nhập với báo chí khu vực và trên thế giới.
Trong đời sống thực tiễn: Nền báo chí Việt Nam thời gian qua phát triển mạnh mẽ, chuyên nghiệp và đạt được những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm quyền tự do báo chí của người dân.
Theo số liệu của Cục Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông, đến tháng 11-2018, Việt Nam có một hệ thống báo chí phong phú, đa dạng, hiện đại, bao gồm: 844 cơ quan báo in với hơn 1.100 ấn phẩm định kỳ các loại, trong đó có 184 báo, 660 tạp chí; 24 cơ quan báo điện tử độc lập; 67 đài phát thanh, truyền hình đang duy trì hoạt động 278 kênh, trong đó phát thanh có 87 kênh, gồm 78 kênh phát sóng quảng bá, 9 kênh cung cấp dịch vụ trả tiền; truyền hình có 191 kênh, gồm 104 kênh truyền hình quảng bá và 87 kênh cung cấp dịch vụ trả tiền. Có 19.166 người được cấp thẻ nhà báo và 23.893 người hoạt động trong lĩnh vực báo chí là hội viên Hội Nhà báo Việt Nam.
Đến nay, Việt Nam có 35 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền, trong đó có 17 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trên mạng internet. Đặc biệt, trong hệ thống truyền hình Việt Nam, người ta có thể thấy sự xuất hiện nhiều kênh truyền hình nổi tiếng của nhiều nước trên thế giới[3]. Đảng, Nhà nước Việt Nam xác định phát triển nền báo chí với tinh thần hội nhập quốc tế; mở cửa đón nhận và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà báo trên thế giới đến tác nghiệp tại Việt Nam.
Cùng với những thành tựu về phát triển kinh tế, Việt Nam đã trở thành quốc gia hàng đầu trong khu vực phát triển về internet, với hệ thống hạ tầng ngày càng hiện đại, phát triển đến mọi vùng đất nước. Hệ thống truyền dẫn có tốc độ tốt, bảo đảm cho người dùng, trong đó có hệ thống báo điện tử, trang thông tin điện tử cùng hàng vạn blog của cá nhân, cập nhật mọi thông tin, vấn đề về cuộc sống của người Việt Nam ở trong nước và định cư ở nước ngoài, những vấn đề thời sự trong khu vực và trên thế giới.
Bất cứ người dân Việt Nam nào cũng có thể sử dụng các trang mạng xã hội để học tập, tìm hiểu, nâng cao nhận thức, thể hiện chính kiến, giao lưu với bè bạn khắp thế giới. Theo số liệu được Bộ Thông tin và Truyền thông tuyên bố tại cuộc hội thảo nhân ngày internet Việt Nam 5-12-2018, Việt Nam đã có trên 60% số người dân sử dụng internet và trở thành quốc gia đứng thứ 16 trên thế giới về số lượng người sử dụng internet. Đây là minh chứng sinh động cho việc bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí, tự do internet ở Việt Nam; đồng thời, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, vu cáo Nhà nước Việt Nam vi phạm tự do báo chí, tự do internet.
Trên thực tế, báo chí Việt Nam là kênh thông tin, phản biện xã hội rộng rãi, công khai, dân chủ, nhanh và có hiệu quả đến với các cấp chính quyền và mọi tầng lớp Nhân dân. Nhiệm vụ của báo chí không chỉ là kênh thông tin tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thông tin mọi mặt hoạt động của xã hội đến với Nhân dân mà báo chí còn là diễn đàn của Nhân dân, để Nhân dân bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, tham gia quá trình xây dựng pháp luật, quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Đó là bức tranh cơ bản về quyền tự do báo chí của mọi công dân ở Việt Nam, là thực tế khách quan không thể bác bỏ.
Vậy nhưng, bất chấp những thành tựu của Việt Nam, thời gian qua các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí vẫn cố tình đưa ra những nhận định, đánh giá sai lệch, quy chụp, thiếu khách quan về tình hình tự do báo chí của Việt Nam. Điển hình như: Báo cáo nhân quyền thế giới hàng năm của Anh, Australia; Nghị quyết của Nghị viện EU; Báo cáo thường niên, thông cáo báo chí của các tổ chức quốc tế; Báo cáo của tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF), của Ủy ban bảo vệ ký giả (CPJ)… mặc dù không thể không thừa nhận Việt Nam đã có “tiến bộ về dân chủ, nhân quyền”, nhưng vẫn xuyên tạc tình hình, vu cáo Nhà nước vi phạm “tự do báo chí”, “Việt Nam kiểm soát và bóp nghẹt quyền tự do báo chí, tự do internet”; “đàn áp, bắt giữ trái phép các blogger”… Vậy thực chất của những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ tình hình tự do báo chí của nước ta là gì?
Trong chiến lược chống phá Việt Nam hiện nay, các thế lực thù địch trong và ngoài nước tập trung vào chống phá Đảng, chế độ và hệ tư tưởng. Một trong những âm mưu cơ bản, lâu dài của các thế lực thù địch là lợi dụng tự do báo chí, sử dụng báo chí làm phương tiện để phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, xuyên tạc thông tin gây hoang mang dư luận, kích động, chia rẽ nội bộ, bôi nhọ làm giảm sút uy tín, niềm tin của Nhân dân đối với Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa, gây mất ổn định chính trị, ngăn cản sự phát triển, hạ thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Họ núp dưới chiêu bài “bảo vệ nhà báo”, “đấu tranh cho tự do báo chí”… để can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước ta. Họ còn cố tình làm cho mọi người hiểu rằng tự do báo chí là một quyền tuyệt đối từ đó cổ xúy, thậm chí là hậu thuẫn cho các đối tượng bất mãn, các đối tượng chống đối lợi dụng quyền tự do báo chí để thực hiện các hoạt động chống phá. Vậy tự do báo chí được hiểu như thế nào? Tự do báo chí có phải là tự do vô hạn không?
Về khái niệm tự do báo chí, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (năm 1948) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (năm 1966) đều khẳng định: quyền tự do báo chí không phải là tự do tuyệt đối; tự do báo chí bị hạn chế bởi quy định là không được vi phạm “quyền, uy tín cá nhân” (người khác); không được làm tổn hại đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng. Thực hiện quyền này, con người phải chịu những hạn chế nhất định nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội, của nhà nước, của người dân.
Trên thực tế, có thể khẳng định rằng, trong bất cứ chế độ chính trị - xã hội nào cũng không thể có “tự do báo chí tuyệt đối” như các thế lực thù địch phản động vẫn rêu rao mà các quốc gia đều có luật và điều khoản xử lý nghiêm khắc hành vi lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Đơn cử như ở nước Mỹ, một quốc gia vốn được coi là “đất nước của tự do báo chí”, tại Điều 2358, Bộ luật Hình sự Mỹ đã nghiêm cấm: “In ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hoặc bạo lực”.
Tổng thống Mỹ Donald Trump đã từng gọi một số hãng truyền thông là “rác rưởi” vì sản xuất “tin tức giả”. Ngày 18/2/2017, ông Donald Trump đã tuyên bố: “Truyền thông tin tức giả không chỉ là kẻ thù của tôi, đó còn là kẻ thù của nước Mỹ!”.
Những người làm truyền thông nếu như đưa những thông tin chống lại đất nước, chống lại chế độ, chống lại lợi ích hợp pháp thì họ trở thành kẻ thù và đương nhiên ở chế độ nào nhà cầm quyền cũng sẽ xử lý những vi phạm đó theo luật pháp.
Như mọi quốc gia trên thế giới, luật pháp Việt Nam cũng có những quy định trong quá trình thực thi quyền tự do báo chí nhằm phù hợp với luật pháp quốc tế và tôn trọng các quyền, danh dự của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn công cộng, sức khỏe cộng đồng và đạo đức xã hội.
Tự do báo chí, là “quyền” nhưng phải đi liền với “trách nhiệm, nghĩa vụ”. Hiến pháp Việt Nam năm 2013, tại Điều 25 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Như vậy, tự do báo chí là một trong những quyền cơ bản của con người. Song, thực hiện quyền đó ra sao lại phải căn cứ vào quy định của các điều ước quốc tế; truyền thống văn hóa, đạo đức, chế độ xã hội và hệ thống luật pháp của mỗi quốc gia. Điều này là tất yếu khách quan mà mỗi tổ chức và cá nhân ở bất cứ quốc gia nào, trong đó có Việt Nam đều phải tuân thủ.
Để phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với các hoạt động lợi dụng tự do báo chí chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực báo chí; chủ động theo dõi, nắm chắc tình hình để có các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn và xử lý kịp thời, hiệu quả với những luận điệu xuyên tạc.
Hai là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền để người dân trong và ngoài nước, cộng đồng quốc tế hiểu đúng về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, về thành tựu bảo đảm tự do báo chí ở Việt Nam cũng như hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của các hoạt động lợi dụng tự do báo chí để chống phá cách mạng Việt Nam.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về báo chí, truyền thông, quản lý internet, mạng xã hội.
Bốn là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; xử lý kịp thời, nghiêm minh những trường hợp sai phạm. Kịp thời tuyên dương, khen thưởng những tổ chức, cá nhân đạt được nhiều thành tích cao trong hoạt động báo chí, tuyên truyền.
Tự do báo chí tại Việt Nam là một mục tiêu nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, thực tế đó không thể phủ nhận, xuyên tạc. Chúng ta tin tưởng rằng với truyền thống của báo chí cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng; với quan điểm, chính sách, pháp luật đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về tự do báo chí; bất chấp sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, nền báo chí cách mạng Việt Nam sẽ ngày càng phát triển, đóng góp thiết thực vào sự phát triển chung của đất nước.
[1]Ủy ban Bảo vệ ký giả (Committee to Protect Journalists, viết tắt là CPJ), là tổ chức được một nhóm thông tin viên nước ngoài của Mỹ thành lập vào năm 1981,trụ sở ở thành phố New York, Mỹ. Mục đích ban đầu đề ra là thúc đẩy tự do báo chí và bảo vệ các quyền của nhà báo, tuy nhiên, trên thực tế hoạt động của CPJ lại trái ngược hoàn toàn.
[2]Chiều 12/9/2019, tại Họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao, trả lời phóng viên về việc Ủy ban Bảo vệ Ký giả (CPJ) ra báo cáo nói Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia kiểm duyệt báo chí nhiều nhất, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng đã phát biểu nội dung trên.
[3]GS,TS. Tạ Ngọc Tấn: Lại bàn về tự do báo chí (tiếp theo và hết), http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/xay-dung-dang/2019/55375/Lai-ban-ve-tu-do-bao-chi-tiep-theo-va-het.aspx.
Đào Tùng