Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), hoạt động ngoại giao nhân dân đóng vai trò quan trọng trong việc tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam. Phối hợp với ngoại giao nhà nước, ngoại giao nhân dân đã trở thành cầu nối để truyền tải thông điệp về cuộc đấu tranh chính đáng của Việt Nam đến bạn bè quốc tế, đồng thời phơi bày bản chất xâm lược và phi nghĩa của chiến tranh do đế quốc Mỹ tiến hành
Đối ngoại nhân dân phát triển đặc biệt mạnh mẽ sau khi chính phủ Johnson đưa quân đội và đồng minh trực tiếp tham gia chiến trường miền Nam. Với quyết tâm giữ vững miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ triển khai nhiều hành động trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao, nhằm vừa tạo sức ép trên chiến trường vừa tìm kiếm sự ủng hộ từ dư luận quốc tế đối với cuộc chiến.
Chính quyền Johnson đã khởi xướng và xem "ngoại giao hòa bình" như một phần trong chiến lược chiến tranh. Các hoạt động tiếp xúc, gặp gỡ, gửi điện, cử nhiều nhà ngoại giao đến các cường quốc, và các kênh ngoại giao gián tiếp khác được thực hiện liên tục và dày đặc, nhằm mục tiêu tuyên truyền với dư luận quốc tế rằng người Mỹ đang thực hiện “tìm kiếm hòa bình” ở Việt Nam, hòa bình chỉ đạt được khi Bắc Việt Nam rút quân và Mỹ sẽ đóng góp viện trợ vào sự phát triển của Đông Nam Á.
Bối cảnh lịch sử mới này thực sự đã tạo ra thách thức cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta, đòi hỏi ngoại giao phải thực sự trở thành một “mặt trận” mũi nhọn tạo ra sức mạnh tổng lực trong cuộc chiến đấu vì độc lập tự do, thống nhất.
Trên mặt trận này, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến nhân dân Mỹ và các nước tư bản phương Tây, chủ trương vận động sự ủng hộ của họ dành cuộc kháng chiến. Người đã nhấn mạnh mặt trận số một chống Mỹ là Việt Nam, mặt trận số hai ở ngay nước Mỹ vì “bị giáp công trên hai mặt trận, đế quốc Mỹ nhất định thua.”[1].
Chỉ thị số 128-CT/TW ngày 6/6/1966 của Ban Bí thư xác định: ngoài các đối tượng truyền thống là các nước xã hội chủ nghĩa, các nước Á, Phi và Mỹ Latinh cũng cần quan tâm đến nhân dân Mỹ và các nước chư hầu của Mỹ, có căn cứ quân sự của Mỹ dùng để xâm lược Việt Nam[2].
Thực hiện chỉ đạo này, hàng loạt các hội hữu nghị với các nước đã được thành lập và trở thành đầu mối phụ trách các hoạt động củng cố tình đoàn kết với nhân dân các nước cũng như kêu gọi sự ủng hộ đối với cách mạng Việt Nam. Trong công tác vận động quốc tế, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa luôn nêu rõ lập trường: “Nhân dân Việt Nam không chống nhân dân Mỹ mà chỉ mong muốn chiến tranh sớm chấm dứt để nhân dân hai nước giảm được mất mát, đau thương và sống hòa bình, hữu nghị với nhau”[3].
Một cuộc đấu tranh của nhân dân tiến bộ Mỹ đòi Nhà Trắng chấm dứt chiến tranh tại Viêt Nam (Ảnh tư liệu)
Từ cuối năm 1966, một nhóm công tác chuyên trách vận động nhân dân Mỹ được thành lập, và đến năm 1967, Tiểu ban Mỹ vận với 40 cán bộ cùng kinh phí và bộ máy hoạt động riêng chính thức ra đời[4]. Tiểu ban này có nhiệm vụ nghiên cứu và đề xuất các chiến lược đấu tranh ngoại giao nhằm giải thích lập trường chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, đồng thời vạch trần bản chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược do chính quyền Mỹ tiến hành ở Việt Nam.
Ngày 10/7/1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập Ủy ban Việt Nam đoàn kết với nhân dân tiến bộ Mỹ (Ủy ban Việt – Mỹ) do Hoàng Minh Giám làm Chủ tịch. Từ thời điểm đó cho đến năm 1975, Ủy ban đã làm đầu mối quan hệ với tất cả các tổ chức và cá nhân của phong trào phản chiến ở Mỹ[5].
Ủy ban Việt - Mỹ đã phối hợp tổ chức đón tiếp hàng trăm cá nhân và đại diện các tổ chức xã hội, phong trào hòa bình, phản đối chiến tranh của Mỹ đến thăm miền Bắc Việt Nam. Chính những chuyến thăm này đã giúp truyền tải những “hình ảnh chân thực nhất” hậu quả của cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân do Mỹ tiến hành, cũng như những tội ác dã man mà không quân Mỹ gây ra đối với dân thường tại miền Bắc Việt Nam.[6].
Các trí thức phản chiến như nhà ngôn ngữ học Noam Chomsky, nhà kinh tế Douglas Dowd, mục sư Dick Fernandez , giáo sư George Wald (đạt giải Nobel về Y học), đoàn công nhân người Mỹ da đen do James Forman dẫn đầu, đoàn Hội sinh viên quốc gia Mỹ do đã lần lượt sang thăm Việt Nam. Đặc biệt, Tom Hayden, một nhà hoạt động xã hội và lãnh đạo phong trào phản đối chiến tranh nổi tiếng của Mỹ (sau này trở thành cựu Thượng nghị sĩ bang California), đã có chuyến thăm Việt Nam trong giai đoạn này. Chuyến thăm của ông là một phần trong nỗ lực của phong trào hòa bình quốc tế nhằm phản đối cuộc chiến tranh xâm lược do chính quyền Mỹ tiến hành. Tại Việt Nam, Tom Hayden đã gặp gỡ các lãnh đạo, tổ chức và nhân dân Việt Nam, trực tiếp chứng kiến hậu quả của chiến tranh đối với người dân và đất nước. Những trải nghiệm thực tế này đã củng cố thêm lập trường phản chiến của ông, đồng thời giúp ông truyền tải những thông điệp chân thực về sự tàn phá của chiến tranh tới công luận Mỹ và quốc tế. Chuyến thăm của Tom Hayden không chỉ thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam mà còn góp phần kết nối các phong trào tiến bộ ở Mỹ và trên thế giới với phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, cuộc gặp gỡ Việt - Mỹ tại Bratislava (Tiệp Khắc) vào tháng 9/1967 giữa hai đoàn đại biểu từ hai miền của Việt Nam[7] và đoàn đại biểu của nhân dân Mỹ là một sự kiện quan trọng trong quan hệ hữu nghị giữa hai nước.
Kết quả, trong thời gian này, nhiều bài báo và cuốn sách thể hiện tình đoàn kết với Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều ở Mỹ, liên tiếp các vụ đốt thẻ quân dịch để phản đối thanh niên nhập ngũ và các sự kiện vì hòa bình cho Việt Nam như cuộc Tuần hành về Washington, Những ngày toàn quốc phản đối chiến tranh ở Việt Nam … đã được tổ chức rầm rộ.
Vào năm 1966, cuốn sách có tựa đề Phía bên kia (Another Side) của Tom Hayden cùng những người bạn là một trong những ấn phẩm tiêu biểu đầu tiên về Việt Nam, về cuộc chiến tranh thảm khốc của Mỹ ở Việt Nam và kêu gọi chính quyền Mỹ bấy giờ rút quân khỏi Việt Nam. Tom Hayden đã tham gia Hội nghị Brastislava tố cáo tội ác của Mỹ và đòi hòa bình cho Việt Nam năm 1967, cùng nhiều buổi nói chuyện phản đối chiến tranh, tổ chức triển lãm tranh cổ động, chiếu phim về Đông Dương...
Tháng 02/1967, mục sư Luther King đã phát biểu trước công chúng Mỹ: “chúng ta không thể im lặng khi quốc gia này tham gia vào một trong những cuộc chiến tàn bạo và phi lí nhất trong lịch sử”[8].
Toàn cảnh Lễ ký Hiệp định Paris ngày 27/01/1973 (Ảnh tư liệu TTXVN)
Đồng thời, nhằm thể hiện thiện chí và tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Ủy ban Việt – Mỹ đã phối hợp với nhiều cơ quan khác tổ chức trao trả tù binh Mỹ, tiêu biểu là sự kiện trao trả ba tù binh Mỹ vào năm 1968. Sự kiện này diễn ra trong bối cảnh cục diện “vừa đánh vừa đàm” được mở ra và cuộc đấu tranh trên bàn ngoại giao tại Paris đang diễn ra căng thẳng.
Một trong những hoạt động nổi bật là việc trao trả tù binh Mỹ nhằm thể hiện thiện chí hòa bình và nhân đạo của Việt Nam. Điển hình, vào ngày 18/7/1968, ba phi công Mỹ bị bắt trong khi thực hiện các cuộc không kích đã được trao trả tại Hà Nội trước sự chứng kiến của đại diện phong trào nhân dân tiến bộ Mỹ. Hành động này không chỉ khẳng định lập trường nhân đạo của Việt Nam mà còn góp phần gây sức ép dư luận đối với chính quyền Mỹ, ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán tại Paris. Buổi trao trả diễn ra trước sự chứng kiến của đại diện phong trào nhân dân tiến bộ Mỹ phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam. Tại sự kiện này, đại diện đoàn đại biểu của phong trào nhân dân tiến bộ Mỹ đã bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính phủ và nhân dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời khẳng định rõ ràng: “Chúng tôi đã đi thăm các nhà máy, phố phường, đồng ruộng và nông thôn của các bạn. Chúng tôi đã gặp gỡ nhiều tầng lớp nhân dân, chúng tôi đã nói chuyện với đại diện của các tổ chức, cơ quan về những thành tựu của nhân dân miền Bắc và lòng dũng cảm của các bạn trong chiến đấu. Hầu hết những người Việt Nam mà chúng tôi đã gặp đều coi chúng tôi là những người bạn, trong lúc các lực lượng quân sự của Chính phủ Mỹ đang ném bom, bắn phá các thành thị, xóm làng và đồng ruộng của các bạn một cách sai trái và đáng xấu hổ. Nhân dân Mỹ đang nhận thức được rằng nhân dân Việt Nam có quyền quyết định lấy tương lai của mình và nhân dân Việt Nam có khả năng và quyết tâm thực hiện quyền tự quyết của mình...”[9]
Những hoạt động truyền thông và ngoại giao tích cực trên đã đẩy Mỹ vào thế phải đối phó với dư luận trong và ngoài nước đòi chấm dứt các hành động chiến tranh phi nghĩa. Phong trào chống chiến tranh Việt Nam diễn ra khắp nơi với nhiều hình thức khác nhau, từ các cuộc hội thảo trong giảng đường đại học đến các cuộc tuần hành trên đường phố, tạo nên sức ép chính trị rất lớn đối với giới cầm quyền Washington.
Số người ủng hộ cuộc chiến ở Việt Nam trong nước Mỹ đã giảm dần trong khi số người ủng hộ rút quân Mỹ khỏi chiến trường Việt Nam tăng nhanh trong suốt những năm 1960 và đầu thập niên 1970.
Trên trường quốc tế, uy tín của Mỹ cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Làn sóng phản đối chiến tranh, đòi Mỹ ngồi vào bàn đàm phán tăng mạnh. Ngày 14/5/1968, trong bài phát biểu tại Trường Đại học Alberta (Canada) Tổng thư ký Liên hiệp quốc U. Thant đã “tỏ rõ lập trường ủng hộ quan điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và kêu gọi chính phủ Mỹ thực hiện một cuộc ngưng oanh tạc toàn diện vô điều kiện miền Bắc”[10].
Có thể khẳng định, trong những năm khốc liệt nhất của cuộc chiến, hoạt động ngoại giao nhân dân đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phong trào của nhân dân Mỹ yêu cầu chấm dứt chiến tranh và giảm chi phí quân sự dành cho chiến sự tại Việt Nam. Đây chính là một trong những yếu tố then chốt buộc chính quyền Mỹ phải điều chỉnh chiến lược quân sự, từng bước xuống thang chiến tranh và chấp nhận các giải pháp do phía Việt Nam đề xuất trên bàn đàm phán Paris.
[1] Mặt trận số 2 chống đế quốc Mỹ, Báo Nhân dân số 4517, ngày 19/8/1966.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, t.27, tr. 199-200.
[3] Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam: Hoạt động đối ngoại nhân dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 26.
[4] Nguyễn Thị Thanh Thủy: Ngoại giao nhân dân trong quan hệ đối ngoại của Mỹ. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 174.
[5] Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam: Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam: Quá trình hình thành và phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, 2013, Hà Nội, tr. 50
[6] Hoàng Hải Hà, Vũ Thị Dung: Vận động và tăng cường mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam tại Mỹ, các nước tư bản chủ nghĩa thông qua đối ngoại nhân dân giai đoạn 1965-1973, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 66 (3), 2020, tr. 121.
[7] Đoàn miền Bắc do ông Nguyễn Minh Vỹ dẫn đầu, đoàn miền Nam do bà Nguyễn Thị Bình dẫn đầu.
[8] Bài Diễn văn “The Casualties of the War in Viet Nam” của Mục sư Martin Luther King Jr đọc tại Beverly Hills, California ngày 25/02/1967. Nguồn: https://www.theatlantic.com/ magazine/archive/2018/02/martin-luther-king-jr-vietnam/552521/ (Truy cập ngày 12/7/2021).
[9] Báo Nhân dân, 1968. “Trao ba tên Mỹ lái máy bay được thả cho những người đại diện của phong trào nhân dân tiến bộ Mỹ”, số 5211, ngày 19/7/1968.
[10] Trung tâm lưu trữ quốc gia II: Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn, Nxb Chính trị quốc gia, 2012, t.1, tr. 75.
Hoàng Hà