Quan điểm nhất quán của Việt Nam
Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông còn diễn biến phức tạp”[1]. Để tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định trên Biển Đông, Việt Nam “Kiên trì chủ trương giải quyết các tranh chấp Biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Trong quá trình tìm kiếm một giải pháp cơ bản, lâu dài cho các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông, các bên liên quan cần kiềm chế, cũng nỗ lực duy trì hòa bình ổn định, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến chương Liên hợp quốc và các chuẩn mực của luật pháp quốc tế, trong đó có 5 nguyên tắc chung sống hòa bình; thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC -2002); Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về vấn đề Biển Đông (2012); Tuyên bố chung của Hội nghị cấp cao ASEAN -Trung Quốc kỷ niệm 10 năm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (2012); sớm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)”[2]. Việt Nam cũng nhất quán với nguyên tắc là những vấn đề chỉ liên quan đến hai nước thì giải quyết song phương; những vấn đề liên quan đến nhiều bên thì bàn bạc giữa các bên liên quan.
Những nỗ lực và hành động trách nhiệm của Việt Nam
Một là, Việt Nam tích cực, chủ động thúc đẩy đàm phán với các bên có liên quan về các vấn đề trên biển. Trong giải quyết vấn đề biển, đảo với Trung Quốc, Việt Nam kiên trì thực hiện Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển mà hai nước đã ký tháng 10/2011, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Điều này cũng được phía Việt Nam nghiêm túc thực hiện khi giải quyết những sự việc căng thẳng, phức tạp trên Biển Đông như việc Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (năm 2014), việc tàu khảo sát địa chấn Hải Dương 8 và nhóm tàu hộ tống Trung Quốc xâm phạm bãi Tư Chính (thuộc thềm lục địa Việt Nam về phía Đông Nam) năm 2019. Chủ trương này cũng đã được Việt Nam áp dụng trong việc đàm phán giải quyết một số tranh chấp biển với các nước láng giềng như Thái Lan, Indonesia, Philippines, Malaysia... và đã đạt được những kết quả quan trọng trong phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với các nước có khu vực biển chồng lấn.
Đại sứ Đặng Hoàng Giang, trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc phát biểu tại Hội nghị lần thứ 33 các quốc gia thành viên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS). Ảnh: TTXVN
Hai là, Việt Nam luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. “Theo đó, khi bàn về các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, Việt Nam kiên trì yêu cầu “tôn trọng luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982”, coi đây như một nguyên tắc để xử lý và giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển đảo. Việt Nam đã nỗ lực đưa các nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, kể cả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); Tuyên bố sáu điểm ngày 20/7/2012 của ASEAN về Biển Đông”[3]. Nội dung này cũng đã được Việt Nam nỗ lực đưa vào Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển đã ký kết với Trung Quốc năm 2011. Việt Nam là một trong những quốc gia tích cực nhất nhằm phấn đấu đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất nhằm bảo đảm rằng thỏa thuận này có thể giải quyết các vấn đề nổi cộm ở Biển Đông, đồng thời góp phần duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác, an ninh và an toàn trong khu vực, vì lợi ích của tất cả các nước liên quan. Trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 42 (diễn ra tại Labuan Bajo, Indonesia từ ngày 10-11/5/2023), Thủ tướng Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phạm Minh Chính nhấn mạnh “bảo vệ hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông vừa là lợi ích, vừa là trách nhiệm của tất cả các nước, đề nghị thúc đẩy thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và phấn đấu đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất, hiệu quả, phù hợp luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982”[4].
Ba là, để tạo dựng lòng tin chiến lược giữa các bên liên quan, Việt Nam đã nỗ lực giải quyết các vấn đề biên giới trên biển, mở rộng hợp tác với các nước khác để bảo đảm an ninh biển (những khía cạnh hợp tác ít liên quan trực tiếp đến tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ). Hải quân, cảnh sát biển Việt Nam đã thiết lập đường dây nóng và tiến hành tuần tra chung với hải quân, cảnh sát biển một số nước như Campuchia, Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc… nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp bảo vệ an ninh trên các vùng chồng lấn và khu vực giáp ranh trên biển. Tích cực tham gia các hoạt động diễn tập đa phương tìm kiếm cứu nạn trên Biển Đông, trước hết là với các nước láng giềng và các nước trong khu vực. Việt Nam cũng rất chủ động đưa vấn đề Biển Đông và tầm quan trọng của việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định trên Biển Đông ra các chương trình nghị sự quan trọng tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Đối thoại Shangri-La… và những kênh diễn đàn, hội nghị khác. Việt Nam luôn ủng hộ và hoan nghênh các quốc gia thể hiện thiện chí cũng như đóng góp tích cực vào việc gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định trên Biển Đông, dựa trên những nguyên tắc, chuẩn mực của luật pháp quốc tế.
Từ chính sách và hành động nhất quán đã cho thấy thiện chí, nỗ lực của Việt Nam trong việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định trên Biển Đông. Điều này không chỉ xuất phát từ lợi ích quốc gia – dân tộc trên Biển Đông mà còn vì lợi ích chung của khu vực cũng như các nước có liên quan; đồng thời để bảo vệ những nguyên tắc, chuẩn mực của luật pháp quốc tế, xu thế hòa bình, hợp tác, cùng phát triển của thế giới; chống lại xu hướng áp đặt, cường quyền nước lớn trong quan hệ giữa các quốc gia khi giải quyết các tranh chấp, bất đồng, đặc biệt là trên khu vực Biển Đông.
Lê Thủ