UNCLOS 1982 là khuôn khổ pháp lý toàn diện về biển và đại dương
Việc làm rõ giá trị pháp lý của UNCLOS 1982 về phạm vi quyền được hưởng vùng biển và chủ trương của Việt Nam trong giải quyết các tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông theo luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982 có ý nghĩa quan trọng, cần thiết, góp phần đấu tranh phản bác những quan điểm xuyên tạc về chủ quyền biển, đảo Việt Nam.
Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 - cơ sở pháp lý quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa các quốc gia ven Biển Đông
UNCLOS 1982 là bản Công ước về luật biển hoàn thiện nhất và bao quát nhất cho đến nay của cộng đồng quốc tế, xác định những quy chế pháp lý của hầu hết các bộ phận thuộc biển và đại dương. UNCLOS 1982 được đánh giá là một bản hiến pháp mới về biển của cộng đồng quốc tế, ấn định các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia, xác lập một trật tự pháp lý mới trên biển, đóng góp quan trọng vào tiến trình pháp điển hóa Luật biển quốc tế.
Theo quy định của UNCLOS 1982, quốc gia ven Biển Đông có các vùng biển: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. UNCLOS 1982 quy định cụ thể cơ sở pháp lý đề xác định các vùng biển, quy định chế độ pháp lý của từng vùng biển của các quốc gia ven biển. Với những giá trị phổ quát và được kết tinh thành luật tập quán quốc tế, được xem là bản Hiến pháp về biển và đại dương, UNCLOS 1982 là cơ sở pháp lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa các quốc gia ven Biển Đông, trong đó có Việt Nam và Trung Quốc. UNCLOS 1982 là một khuôn khổ pháp lý đa phương và toàn diện nhằm giúp các quốc gia khai thác, sử dụng và quản lý biển một cách hòa bình, công bằng, bền vững trên cơ sở tôn trọng chủ quyền lẫn nhau.
Là quốc gia ven Biển Đông, một trong 119 quốc gia và thực thể ký Công ước Luật biển từ ngày đầu, Việt Nam luôn ủng hộ và đi đầu tại khu vực trong việc áp dụng UNCLOS 1982 để giải quyết các vấn đề biển liên quan. Với việc Quốc hội Việt Nam ra Nghị quyết chính thức phê chuẩn UNCLOS 1982 ngày 23/6/1994, Nhà nước Việt Nam đã chính thức hóa cơ sở pháp lý quốc tế về phạm vi các vùng biển và thềm lục địa, tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong công cuộc bảo vệ chủ quyền vùng biển và thềm lục địa, bảo vệ lợi ích quốc gia trên các vùng biển đảo; đồng thời thể hiện quyết tâm của Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng.
Theo UNCLOS 1982, Việt Nam có vùng lãnh hải 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, thềm lục địa rộng ít nhất 200 hải lý và có thể mở rộng tới 350 hải lý tính từ đường cơ sở, hoặc 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét, được quốc tế thừa nhận. Diện tích các vùng biển và thềm lục địa giàu tài nguyên mà Việt Nam được hưởng theo quy định của UNCLOS 1982 mở rộng gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền. Đây là cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc trong đấu tranh bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa, các quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trên biển, đấu tranh bảo vệ chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Việt Nam đã đàm phán và ký các hiệp định về vùng nước lịch sử với Campuchia, phân định Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc, hợp tác khai thác với Malaysia ở vùng biển chồng lấn, phân định vùng chồng lấn với Thái Lan, vùng thềm lục địa với Indonesia. Năm 2009, Việt Nam đã hoàn thành và trình lên Liên hợp quốc Báo cáo quốc gia xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa Việt Nam và Báo cáo chung với Malaysia về ranh giới ngoài thềm lục địa. Nội dung hai Báo cáo này là căn cứ quan trọng khẳng định vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế và các quy định của UNCLOS 1982.
Luật biển Việt Nam (Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 21/6/2012) nêu rõ: vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với UNCLOS 1982. Luật biển Việt Nam đã tạo khuôn khổ pháp lý cho việc quản lý, bảo vệ, sử dụng hiệu quả các vùng biển đảo, phát triển kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển của Việt Nam.
Trước những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, Nhà nước Việt Nam khẳng định lập trường pháp lý về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và các vùng biển đảo thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam được xác định trên cơ sở UNCLOS 1982. Ngày 30/3/2020, phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc gửi Công hàm lên Tổng thư ký Liên hợp quốc phản đối lập trường của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông. Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế. Việt Nam khẳng định UNCLOS 1982 là cơ sở pháp lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam phản đối các yêu sách ở Biển Đông vượt quá những giới hạn được quy định tại UNCLOS, trong đó có yêu sách quyền lịch sử, các yêu sách này đều không có giá trị pháp lý.
Chủ trương của Việt Nam về giải quyết các tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông theo luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982
Từ góc độ UNCLOS 1982, Biển Đông là khu vực đặc thù, chứa đựng tất cả các nội dung liên quan của UNCLOS 1982 như quốc gia ven biển, quốc gia quần đảo, nước không có biển, nước bất lợi về mặt địa lý, các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia, vùng nước lịch sử, vùng đánh cá, phân định biển, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, chống cướp biển, an toàn hàng hải…
Giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế trở thành nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, của Hiến chương Liên hợp quốc và được thể hiện đậm nét trong UNCLOS 1982. Trong vấn đề Biển Đông, chủ trương, chính sách rõ ràng và nhất quán của Việt Nam là giải quyết các tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982 bao gồm các tiến trình ngoại giao và pháp lý. Nghị quyết Quốc hội Việt Nam ngày 23/6/1994 phê chuẩn UNCLOS 1982 nêu rõ: Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Luật biển Việt Nam cũng quy định: “Nhà nước giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước khác bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn quốc tế”.
Trong số các quốc gia ven Biển Đông, Việt Nam là nước có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, quyền chủ quyền, quyền tài phán các vùng biển theo luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982. Việt Nam nhất quán: “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hợp pháp, chính đáng của quốc gia trên biển, đồng thời chủ động, tích cực giải quyết, xử lý các tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển”[1].
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo, lợi ích quốc gia trên biển là vấn đề trọng yếu, thường xuyên và lâu dài. Là thành viên của Liên hợp quốc (1977), Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (1994), Tuyên bố của các bên về cách ứng xử ở Biển Đông (2002), Hiến chương ASEAN (2008), Việt Nam luôn coi trọng và đề cao các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, nỗ lực cùng các nước thúc đẩy xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông, đóng góp thiết thực vào việc giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông. Việt Nam luôn nhất quán “giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982”.
UNCLOS 1982 là điều ước quốc tế quan trọng nhất về Luật biển trên phạm vi toàn cầu. Trong bối cảnh an ninh, hòa bình khu vực và thế giới bị đe dọa bởi những tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo; chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền, nước lớn trong quan hệ quốc tế gia tăng, việc tôn trọng và thực thi luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982 là nền tảng của ổn định, bảo đảm sự thịnh vượng và phát triển của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Giải quyết các tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình dựa trên luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, UNCLOS 1982 là lợi ích chung của tất cả các nước trong, ngoài khu vực và của cộng đồng quốc tế.
Vạn Lý