Bài báo "Dân vận" được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết năm 1949. Tác phẩm tuy ngắn gọn, nhưng chứa đựng quan điểm mang tầm chiến lược về vai trò của nhân dân, về vấn đề dân chủ, về vị trí, phương pháp, cách thức của công tác dân vận. Bài báo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định đối với thành bại của cách mạng. Tư tưởng đó được Người thể hiện sinh động trong tác phẩm “Dân vận” đăng trên Báo Sự thật, số 120, ngày 15-10-1949, với bút danh X.Y.Z. Chỉ hơn 600 chữ nhưng bài báo đã khái quát một cách sâu sắc, súc tích, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu những vấn đề liên quan đến công tác dân vận và cán bộ dân vận. Đến nay, qua 74 năm tác phẩm “Dân vận” của Người vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác dân vận của Đảng ta hiện nay.
Ngay phần mở đầu, Bác viết: “Vấn đề Dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng, cho nên cần phải nhắc lại”; lời nhận định của Người cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị lịch sử, vì trên thực tế, có nhiều cán bộ ở các địa phương hiện nay chưa hiểu đúng và chưa thực hiện đúng, thực hiện chưa tốt công tác dân vận. Người khẳng định bốn vấn đề cốt tử của công tác dân vận: Nước ta là nước dân chủ; dân vận là gì?; ai phụ trách dân vận?; dân vận phải thế nào?[1]. Với cách đặt câu hỏi và trả lời ngắn gọn, nhưng Người đã đề cập một cách toàn diện những nguyên lý cơ bản nhất trong công tác dân vận của Đảng.
Trong mục I của tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[2]. Chữ “dân” được Người nhắc đến nhiều lần trong từng câu, đó là nguyên lý cơ bản để xây dựng những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng ta đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trong mục II của tác phẩm “Dân vận là gì?”, Bác lưu ý, “không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ. Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”[3].
Trong mục III của tác phẩm “Ai phụ trách dân vận?”, Người nhấn mạnh: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân đều phải phụ trách dân vận”, phải “cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu” đúng, làm đúng, ủng hộ cách mạng. Người yêu cầu, cán bộ làm công tác dân vận “cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”, “phải thật thà nhúng tay vào việc”[4].
Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 3-6-2013, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI, về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, đã nêu rõ, tăng cường lãnh đạo công tác thông tin, tuyên truyền, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan thông tin đại chúng; mở rộng các kênh thông tin truyền thông, đối thoại trực tiếp với nhân dân, góp phần giải tỏa bức xúc, hoài nghi trong xã hội; người làm công tác dân vận phải có phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với nhân dân. Theo đó, trong thời gian qua, công tác dân vận được đẩy mạnh và ngày càng có hiệu quả thiết thực, góp phần quan trọng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Điển hình là phong trào “Dân vận khéo” và việc xây dựng mô hình “Dân vận khéo” cụ thể, thiết thực, phù hợp điều kiện thực tế ở các địa phương. Đây là điều kiện rất cơ bản để toàn Đảng, toàn dân ta phát huy sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử làm cho tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước không ngừng nâng lên. Tuy nhiên, công tác dân vận vẫn còn không ít hạn chế, khuyết điểm về cả nhận thức, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, nội dung và phương pháp tiến hành. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, biến đổi về cơ cấu giai cấp và quan hệ lợi ích kinh tế; sự suy thoái của một bộ phận cán bộ đảng viên… đang là trở ngại lớn của công tác dân vận.
Để khắc phục hạn chế, phát huy mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của nhân dân nhằm thực hiện thành công mục tiêu chiến lược đề ra tại Đại hội XIII của Đảng, đòi hỏi công tác dân vận của Đảng phải không ngừng đổi mới, tập trung vào một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với cử tri tại quận Ba Đình ngày 13-5-2023
Một là, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của cán bộ, đảng viên, của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức rõ, dân vận là vấn đề chiến lược, phương thức vận động, tồn tại, phát triển của Đảng và chế độ ta. Dân vận là một trong những phương thức cơ bản để xây dựng, vận hành và thực thi dân chủ. Không thể có chủ nghĩa xã hội nếu không có dân chủ và sẽ không thể có dân chủ nếu không làm công tác dân vận, không coi trọng việc dân vận. Bởi vậy, dân vận không phải chỉ làm theo phong trào mà là công việc thường xuyên, thường trực; gắn với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị, nhất là chính quyền. Trong bối cảnh kinh tế thị trường, kinh tế tri thức, cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng càng phải coi trọng công tác dân vận. Kiên quyết loại bỏ tình trạng “khoán trắng” cho Ban Dân vận và đồng chí cấp ủy phụ trách dân vận.
Hai là, đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trên tất cả các mặt tư tưởng, chính trị, tổ chức, đạo đức và cán bộ; xây dựng bộ máy chính quyền liêm chính, mạnh mẽ, sáng suốt, gần dân. Trong đó, đặc biệt nâng cao vai trò trách nhiệm và sự gương mẫu của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, tổ chức, bởi đây là minh chứng sinh động nhất và có sức thuyết phục nhất để “dân tin, dân phục, dân làm theo”. Đồng thời, trong điều kiện mở cửa và hội nhập, với sự thâm nhập của nhiều quan điểm, tư tưởng, sự mở rộng nhiều luồng thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của nhân dân thì công tác xây dựng Đảng phải gắn chặt với bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, luận điệu lệch lạc, sai trái, thù địch.
Ba là, kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân vận từ Trung ương đến cơ sở trên cơ sở xác định đúng chức năng, nhiệm vụ và tạo điều kiện về vật chất, tinh thần, pháp lý cho các tổ chức làm công tác dân vận hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Ban Dân vận cần làm tốt trách nhiệm tham mưu, giúp cấp ủy trong công tác dận vận, tăng cường công tác kiểm tra, giúp đỡ về chuyên môn, nghiệp vụ cho các cơ quan trong hệ thống chính trị, nhất là dân vận chính quyền. Nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là cần xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận đủ trình độ, năng lực, phương pháp, tận tâm với nhân dân, tận tâm với công việc. Quan tâm lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và có cơ chế, chính sách động viên đội ngũ cán bộ làm công tác mặt trận, dân vận, đoàn thể; rèn luyện tác phong “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”; nâng cao trình độ và tinh thần, trách nhiệm của người làm dân vận trên tinh thần “không để sót một người dân nào” và “dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”; kiên quyết không bố trí cán bộ yếu trình độ, thiếu gương mẫu, kém đạo đức, vi phạm kỷ luật làm công tác dân vận.
Bốn là, nâng cao chất lượng giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Để việc giám sát, phản biện được thực hiện một cách thực chất, các cấp ủy, tổ chức đảng một mặt phải tôn trọng tính độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, mặt khác Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, làm tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở, phù hợp với trình độ dân trí và đặc điểm, tình hình cụ thể của từng giai tầng xã hội, trong từng thời kỳ. Tổ chức Thực hiện tốt Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; đồng thời phải gắn công tác dân vận với việc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, cơ sở.
Thứ năm, đẩy mạnh thực hiện dân vận theo đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đến nay, Đảng đã có nhiều nghị quyết, chủ trương về dân vận; Nhà nước ban hành nhiều chính sách, pháp luật liên quan đến thực hiện dân vận. Tuy nhiên, trên thực tế, việc tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, nhiều nơi lãnh đạo cấp ủy không quan tâm đến công tác dân vận, không trực tiếp đối thoại với nhân dân, cán bộ dân vận thực hiện nhiệm vụ qua loa, hời hợt, quan liêu, xa dân, vô cảm với dân. Để khắc phục tình trạng đó, Đảng phải tăng cường lãnh đạo, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể phải chủ động tham mưu, làm nòng cốt và chính quyền các cấp phải quyết liệt tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật về dân chủ, dân vận. thực hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận khéo” trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội; xác định nội dung mô hình “Dân vận khéo” phù hợp với điều kiện từng địa bàn cơ sở, từng đối tượng gắn với các phong trào thi đua yêu nước. Tích cực tuyên truyền, biểu dương, khen thưởng, tôn vinh nhân rộng các tấm gương điển hình về công tác dân vận. Đồng thời phê bình, uốn nắn sửa chữa khuyết điểm; xử lý nghiêm minh những cá nhân, tổ chức vi phạm quy định của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Gắn thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo” với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Chú trọng xây dựng được chương trình, kế hoạch cụ thể của công tác kiểm tra, giám sát nghị quyết, các văn bản, quyết định liên quan đến công tác dân vận; tăng cường phối hợp, thực hiện Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Năng lực dân vận, hiệu quả trong công tác dân vận cần được xem là một trong những tiêu chí, tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn, đánh giá, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.6, tr.232.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, H.2011, t.6, tr.232-233
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, H.2011, t.6, tr.232-233
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, H.2011, t.6, tr.233-234
Hồng Hải