Để chỉ dẫn cho cán bộ, đảng viên, tổ chức chính quyền và các tổ chức đoàn thể về công tác dân vận một cách đầy đủ, sâu sắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài báo Dân vận đăng trên Báo Sự thật, số 120, ngày 15-10-1949. Tác phẩm này được xem là cẩm nang của công tác dân vận.
Là người luôn đánh giá cao vai trò và sức mạnh của nhân dân, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” nên trong hành trình tìm đường cứu nước, Người đã sớm nhận thấy sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Người nói:
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.”
Vì vậy, Người căn dặn: “Nước lấy dân làm gốc… gốc có vững, cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Do đó, muốn làm cách mạng,Đảng phải chăm lo công tác dân vận để tập hợp, tổ chức, phát huy vai trò, sức mạnh của Nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
“Dân vận” theo Hồ Chí Minh “là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”.
Theo Hồ Chí Minh, “tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh,...) đều phải phụ trách dân vận” với đối tượng rất rộng lớn, đó là “tất cả lực lượng của mỗi một người dân” và “không để sót một người dân nào”, nhằm tập hợp, đoàn kết lực lượng toàn dân, thực hiện những công việc chung, những công việc nên làm.
Người còn chỉ rõ nếu “dận vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”, cho nên làm công tác dân vận phải có phương pháp, đòi hỏi: “Cán bộ chính quyền và cán bộ Đoàn thể địa phương phải cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng nhau chia công rõ rệt” và “những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh” và “dân vận không chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ” mà phải “cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức nhân công, sắp xếp việc làm, khuyến khích, đôn đốc, theo dõi, giúp đỡ dân giải quyết những điều khó khăn...”. Đồng thời, khi thực hiện xong công việc cần phải cùng dân rút kinh nghiệm, phê bình, biểu dương, khen thưởng kịp thời, chính xác những việc làm tốt, những mô hình hay, những giải pháp hiệu quả, phải tôn vinh “gương người tốt, việc tốt” để động viên mọi người noi theo, vì “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
Bác Hồ thăm và nói chuyện với bà con nông dân xã viên hợp tác xã Hùng Sơn,
huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, năm 1954. Ảnh tư liệu.
Bên cạnh đó, Người cũng phát hiện ra vấn đề nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, chưa làm đúng công tác dân vận, thậm chí nhiều nơi còn mắc sai lầm rất to, rất có hại là xem khinh việc dân vận, cử những cán bộ yếu kém để đảm nhiệm, còn những cán bộ khác thì không trông nom, giúp đỡ, xem đó không phải là trách nhiệm của mình, “vận được thì tốt, vận không được cũng mặc”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và lâu dài, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận đã được Đảng ta vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo phù hợp với từng giai đoạn, hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã ban hành nhiều văn bản về công tác dân vận, trong đó điển hình là Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW, ngày 27/3/1990 về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”, Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị về “Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; các Nghị quyết số 23-NQ/TW, 24-NQ/TW, 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân tộc, công tác tôn giáo; Quyết định số 290-QĐ/TW, ngày 25/02/2010 của Bộ Chính trị về “Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị”; Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”…
Đặc biệt, tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng (năm 2021), trên cơ sở đánh giá một cách khách quan quá trình triển khai công tác dân vận,Đại hội đã chỉ rõ: “Công tác dân vận được chú trọng và tiếp tục đổi mới; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường”. Nhờ đó, Đảng đã phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân và “với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đó là minh chứng cho việc vận dụng một cách đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác dân vận năm 2021. Ảnh: Internet.
Bên cạnh đó, Đại hội cũng cho rằng công tác dân vận có lúc, có nơi vẫn còn những hạn chế, yếu kém, như: một số cấp uỷ, tổ chức đảng còn xem nhẹ công tác dân vận; việc vận động, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn một số bất cập; trong đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên, xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới…
Để góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước với tầm nhìn đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, đòi hỏi phải “thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”. Muốn làm được điều này, Đảng phải chăm lo nâng cao hiệu quả công tác dân vận với những giải pháp quan trọng đã được Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra, đó là: Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận; tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân"; thực hiện tốt phong trào thi đua dân vận khéo; tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan đảng, nhà nước, chính quyền các cấp; chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác dân vận; nâng cao chất lượng giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân; tiếp tục thể chế hoá phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng; tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận…
Tiếp thu tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, ngày 30/7/2021, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 23-QĐ/TW về “Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị” (thay thế Quyết định số 290-QĐ/TW) với nhiều điểm mới, trong đó quy định một cách cụ thể về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân và cơ chế, phương thức thực hiện công tác dân vận trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, cũng như đề cao vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu đối với công tác dân vận. Điều này sẽ góp phần quan trọng làm nên những thắng lợi mới trong công cuộc xây dựng đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Bùi Thị Nhung