Đến nay, Đảng ta đã tổ chức 13 kỳ đại hội. Mỗi đại hội đều để lại những dấu ấn lịch sử, đánh dấu bước phát triển đã qua và mở đường cho những thắng lợi tiếp theo của cách mạng Việt Nam
Mùa xuân 1930, tại Hồng Kông (Trung Quốc), đáp ứng yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam, đồng chí Nguyễn Ái Quốc với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, đã tổ chức Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng và lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc nhân dịp thành lập Đảng. Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã phản ánh đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Đây chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đánh dấu công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng (3-1935) họp tại một địa điểm ở phố Quan Công- Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của Đảng: củng cố và phát triển Đảng; đẩy mạnh cuộc vận đồng quần chúng; chống chiến tranh đế quốc. Đại hội thông qua một loạt nghị quyết quan trọng: Nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính, về công tác phản đế đồng minh, công tác vận động các dân tộc thiểu số, về đội tự vệ, về cứu tế đỏ.
Đây là lần đầu tiên từ sau ngày thành lập Đảng, những người cộng sản Đông Dương đã tổ chức được một Đại hội đại biểu thành công về nhiều mặt. Đại hội là mốc son khẳng định Đảng ta đã vượt qua được những năm tháng khắc nghiệt của khủng bố trắng, đánh dấu sự phục hồi mạnh mẽ của hệ thống tổ chức Đảng và phong trào cách mạng, đưa tới thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Để đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tới những thắng lợi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) họp tại xã Vinh Quang (nay là xã Kim Bình), huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Đây là Đại hội đầu tiên họp ở trong nước. Đại hội đã thông qua Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội. Bản Báo cáo này được coi là bản Cương lĩnh mới của cách mạng Việt Nam, đã trình bày một hệ thống đầy đủ những vấn đề đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân: tính chất cách mạng; mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng, đặc biệt là giải quyết mối quan hệ chống đế quốc và phong kiến; lực lương cách mạng; quan hệ quốc tế; vừa kháng chiến vừa xáy dựng chế độ dân chủ nhân dân để tiến tới chủ nghĩa xã hội; vai trò lãnh đạo của Đảng và xây dựng Đảng. Đại hội đã quyết nghị đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam, thông qua Chính cương, Tuyên ngôn và Điều lệ mới của Đảng.
Đại hội III, tháng 9/1960 (Ảnh Tư liệu)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960), tổ chức tại Hà Nội. Đại hội đề ra chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, đó là: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, đồng thời xác định mối quan hệ mật thiết, tác động, thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển của hai chiến lược cách mạng để thực hiện mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam là độc lập, hòa bình, thống nhất Tổ quốc. Đại hội còn xác định vai trò, vị trí của cách mạng mỗi miền trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976), diễn ra tại Thủ đô Hà Nội trong không khí thống nhất đất nước. Đại hội đã tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước. Đánh giá thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội khẳng định đó là một trong những chiến công vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Đại hội IV của Đảng quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết của Đại hội đã phản ánh được tầm vóc thời đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và khát vọng xây dựng chủ nghĩa xã hội của toàn Đảng, toàn dân ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3-1982) họp tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng của nước ta trong giai đoạn mới: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời xác định rõ mối quan hệ mật thiết giữa hai nhiệm vụ chiến lược trong tình hình mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội tự phê bình và phê bình thẳng thắn, nghiêm túc về những khuyết điểm, yếu kém trong lãnh đạo quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Đại hội phản ánh những tư duy đổi mới từng bước của Đảng đang được hình thành, nhấn mạnh nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong chặng đường trước mắt, coi ổn định tình hình kinh tế - xã hội là nhiệm vụ bức thiết nhất.
Đại hội VI tháng 12/1986 (Ảnh Tư liệu)
Cuộc khủng hoảng - kinh tế xã hội đòi hỏi Đảng ta phải đánh giá, nhìn nhận và phải đổi mới. Đổi mới trở thành mệnh lệnh của cuộc sống, là vấn đề “sống còn”. Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác. Đại hội đặc biệt nhấn mạnh phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; phải nắm vững quy luật khách quan, lấy dân làm gốc. Đại hội đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tạo ra bước đột phá lớn, toàn diện, đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên. Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và dân tộc. Đường lối đổi mới thể hiện sự phát triển tư duy lý luận, khả năng tổng kết và tổ chức thực tiễn của Đảng.
Trước sự chuyển biến sâu sắc của tình hình thế giới, Đại hội VII của Đảng (6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã nêu những đặc trưng và phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cương lĩnh năm 1991 đã thể hiện những nhận thức mới của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đây là Đại hội của “trí tuệ - đổi mới, dân chủ - kỷ cương - đoàn kết". Đại hội đã hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm của Việt Nam và những giải pháp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đặt cơ sở và quyết định những bước đi tới cho sự phát triển mạnh mẽ của đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) đánh dấu một bước phát triển mới của công cuộc đổi mới. Đại hội khẳng định: sau 10 năm đổi mới, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ của chặng đường đầu thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trước thềm của thiên niên kỷ mới với nhiều thời cơ và thách thức đan xen, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001) xác định mục tiêu chung của cách mạng nước ta là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ. Đại hội đánh giá sâu sắc, đầy đủ và toàn diện hơn về vị trí, vai trò và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội IX của Đảng đã làm sáng tỏ hơn quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội IX của Đảng đã bổ sung, phát triển đường lối đối ngoại: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên là rất nghiêm trọng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội X, tháng 4/2006 (Ảnh Tư liệu)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4-2006), trên cơ sở tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới, khẳng định: Nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, rút ra 5 bài học lớn của công cuộc đổi mới. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Đại hội đã nêu lên tám đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng; tám phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kế thừa và phát triển tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ hơn một bước những nội dung cơ bản về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Đại hội khẳng định: nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (01-2011) đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển về nhận thức lý luận và thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta. Trên cơ sở tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng, trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đến giữa thế kỷ XXI trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XI đánh dấu bước tiến mới trong đổi mới tư duy phát triển, phương thức phát triển, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tỉnh bền vững, gắn đổi mới mô hình tăng trưởng với cơ cấu lại nền kinh tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (01-2016), với chủ đề "Tăng cường xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại", Ðại hội thảo luận, thống nhất đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Ðại hội XI, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 và nhìn lại 30 năm đổi mới.
Ðại hội thống nhất nhận định, trong nhiệm kỳ 2016-2020, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả các nhiệm vụ trọng tâm sau:
- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
- Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
- Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
- Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
- Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đại hội XII của Đảng với những dấu ấn: Năm 2017, tăng trưởng GDP đạt 6,81%, cao nhất kể từ năm 2009. Lần đầu tiên sau nhiều năm 13/13 chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội đặt ra đã hoàn thành và vượt kế hoạch; Trung ương Đảng ban hành nghị quyết xác định vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân trở thành động lực của kinh tế thị trường định hướng XHCN; Hoạt động đối ngoại sôi nổi, tiếp tục hội nhập sâu rộng với quốc tế, đặc biệt năm 2020 với việc giải quyết đại dịch Covid-19. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được triển khai quyết liệt từ Trung ương đến cơ sở. Nhiều vụ tham nhũng gây hậu quả nghiêm trọng được đưa ra xét xử. Nhiều tổ chức Đảng, cán bộ cấp cao có sai phạm bị kỷ luật, xét xử nghiêm minh; khẳng định quan điểm của Đảng là không có “vùng cấm” trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch ngày càng hiệu quả.
Từ ngày 25/01 đến ngày 02/02/2021, Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng được tổ chức. Chủ đề Đại hội là "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Đại hội được tiến hành theo phương châm: Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển.
Đại hội đã đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và nhìn lại chặng đường 35 năm đổi mới đất nước; thảo luận, thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII; các báo cáo: Tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030; đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025; kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII; tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII.
Ngay trong những ngày diễn ra Đại hội, làn sóng đại dịch Covid lần thứ tư đang đe dọa phá hoại những thành quả của Việt Nam trong công cuộc phòng chống dịch bệnh. Lãnh đạo Đảng, nhà nước đã thể hiện sự kiên quyết, kịp thời chỉ đạo công tác phòng chống dịch, bảo vệ những thành quả về kinh tế, xã hội đã đạt được.
Trên cơ sở thành tựu của nhiệm kỳ XII, đặc biệt là thành tựu kép trong năm 2020, vừa chống đại dịch Covid thành công, vừa tiếp tục tăng trưởng kinh tế, tầm nhìn của Đảng đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đem lại niềm tin tưởng, phấn khởi của toàn Đảng, toàn dân về tương lai tươi sáng của dân tộc.
Trải qua 91 năm xây dựng và trưởng thành với 13 kỳ đại hội, trên cơ sở vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế. Đảng ta đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, cả về nhận thức lý luận và hoạt động lãnh đạo thực tiễn, giành được những thắng lợi to lớn. Những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI là minh chứng hùng hồn cho vai trò lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, minh chứng bằng thực tiễn lịch sử công cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc gắn với xây dựng chủ nghĩa xã hội, là sự lựa chọn đúng đắn của chính nhân dân Việt Nam, sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc Việt Nam.
Chi Mai