Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm sóc sức khỏe cho nhân dân thể hiện sâu sắc chủ nghĩa nhân văn cao đẹp của Người. Nếu trong giáo dục, Người nói “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” thì về sức khỏe, Người nói “Dân cường thì nước thịnh”. Đó là mục tiêu, là kim chỉ nam cho Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
Quan niệm của Hồ Chí Minh về sức khỏe
Quan niệm của Hồ Chí Minh về sức khỏe bao hàm một ý nghĩa rộng lớn và toàn diện. Sức khỏe của mỗi người dân là một bộ phận hợp thành sức khỏe của xã hội, cho nên muốn phát triển sức khỏe cho một xã hội nói chung thì phải bắt đầu từ việc chăm sóc sức khỏe cho từng người dân. Trong bài Sức khỏe và thể dục, Người nói: “Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe”1. Theo Người, sức khoẻ của nhân dân là yếu tố quyết định tới sự thịnh, suy hoặc sự hưng vong của đất nước: “Dân cường thì quốc thịnh”2.
Hồ Chí Minh cho rằng, phải hiểu khái niệm sức khỏe theo nghĩa rộng - tức là, sức khỏe không chỉ đơn thuần là sự khỏe mạnh về thể xác mà còn là cả sự khỏe mạnh trong đời sống tinh thần.
Ngay từ năm 1946, khi nước nhà mới giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra quan niệm về sức khỏe rất toàn diện, Người viết: “khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ, như vậy là sức khỏe”3. Vì vậy, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người, theo Người phải bằng những biện pháp tổng hợp, không những về mặt thể chất mà còn cần chú trọng cả về mặt tinh thần. Trong bức thư gửi Hội nghị Quân y tháng 3/1948, điều này được Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”4.
Quan niệm trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức khỏe cũng hoàn toàn thống nhất với định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) về sức khỏe được nêu ra trong Tuyên ngôn Alma Ata năm 1978, quan niệm rằng: Sức khỏe là trạng thái thoải mái hoàn toàn cả về thể chất lẫn tâm thần - xã hội, chứ không phải là tình trạng không có bệnh tật, hoặc không bị chấn thương.
Như vậy, Hồ Chí Minh kế thừa các tư tưởng quý giá của y học dân tộc và với một phương pháp tư duy khoa học, Người đã đưa ra một quan niệm đúng đắn và khoa học về sức khỏe. Quan niệm này cũng được coi là một quan niệm tiến bộ và vượt trước so với quan niệm của WHO đến gần nửa thế kỷ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tập thể dục tại chiến khu Việt Bắc (Ảnh tư liệu)
Tầm quan trọng của vấn đề sức khỏe và làm thế nào để chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
Trong các di huấn của mình, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề sức khỏe của nhân dân, coi đây là một “vốn quý nhất” có ý nghĩa quyết định đến sự cường thịnh của đất nước và cần phải đặc biệt quan tâm chăm lo chu đáo.
Trong tác phẩm Xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội, Người khẳng định: “Phải biết quý trọng sức người là vốn quý nhất của ta. Chúng ta cần hết lòng chăm sóc sức khỏe và sử dụng thật hợp lý sức lao động của nhân dân ta”5 và khẳng định tính tất yếu của việc rèn luyện nâng cao sức khỏe cho mỗi người và cho toàn dân “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới làm thành công”6.
Trong thư gửi Hội nghị Cán bộ y tế toàn quốc năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Sức khỏe của cán bộ và nhân dân được đảm bảo thì tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và sức khỏe đầy đủ thì kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công”7.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng chăm sóc sức khỏe nhân dân là trách nhiệm của Đảng, của Chính phủ và của cả xã hội. Người căn dặn: “Chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”8.
Người chủ trương phải xây dựng nền y học theo nguyên tắc: khoa học, dân tộc và đại chúng. Trong thư gửi Hội nghị Cán bộ y tế năm 1955, Người định hướng: “Xây dựng một nền y học của ta - Trong những năm nước ta bị nô lệ, thì y học cũng như các ngành khác đều bị kìm hãm. Nay, chúng ta đã độc lập, tự do, cán bộ cần giúp đồng bào, giúp Chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu của nhân dân ta. Y học càng phải dựa trên nguyên tắc: khoa học, dân tộc và đại chúng”9.
Hồ Chí Minh chỉ ra cách thức tốt nhất và hiệu quả nhất của việc chăm sóc sức khỏe là “phòng bệnh”. Trong bài viết Vệ sinh yêu nước, Người cho rằng: “phòng bệnh hơn trị bệnh”10, cho nên mọi người từ già trẻ, trai gái đã là người dân yêu nước đều phải quan tâm đến vấn đề vệ sinh, giữ gìn sức khỏe. Người giải thích: “Sạch sẽ là một phần của đời sống mới, sạch sẽ thì dân ít ốm, khỏe mạnh thì làm được việc, làm được việc thì có ăn”11. Cho nên, đối với mọi tầng lớp, lứa tuổi, ngành nghề đều phải giữ gìn và nâng cao sức khỏe. Theo Người, giữ gìn vệ sinh, chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của mọi người, không phân biệt người giàu, người nghèo, bất luận là giàu hay nghèo đều phải thực hiện thật tốt: “Nếu người giàu không giúp cho dân nghèo ăn ở đúng vệ sinh, đến khi có bệnh dịch thì người giàu cũng khó sống”12. Vì thế, những gì liên quan có lợi cho sức khỏe, Người đều biểu dương khen ngợi: “Chúng ta tự hào có nhiều cụ ông, cụ bà ngoài 70, 80 tuổi vẫn hăng hái học tập và lao động, lập ra những đội “bạch đầu quân” trồng cây gây rừng, đôn đốc phong trào bình dân học vụ và vận động vệ sinh phòng bệnh”13.
Hồ Chí Minh cũng chỉ ra trách nhiệm chính trong chăm sóc sức khỏe cho nhân dân là ngành y tế và các thầy thuốc Việt Nam. Trong thư gửi Hội nghị Cán bộ y tế toàn quốc, tháng 6/1953, Người cho rằng: Phòng bệnh cũng cần thiết như trị bệnh, để làm tròn nhiệm vụ ấy, cán bộ y tế cần phải thương yêu người bệnh như anh em ruột thịt, tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân. Người nhấn mạnh: “Lương y phải kiêm từ mẫu”14.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với đội ngũ y, bác sỹ Nhà thương Vân Đình (Ảnh tư liệu)
Tại Hội nghị Cán bộ y tế ngày 27/02/1955, Hồ Chí Minh đã gửi thư “góp vài ý kiến” để các đại biểu thảo luận. Vấn đề y đức, một lần nữa, tiếp tục được Người nhấn mạnh, cán bộ y tế phải thương yêu người bệnh, bởi, “Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ sức khỏe cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn”16.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến chăm lo sức khỏe cho toàn dân. Người quan tâm đến sức khỏe của tất cả mọi người: Đối với cán bộ, đảng viên, Người căn dặn “đảng viên và cán bộ cẩn thận giữ gìn sức khỏe của mình để làm việc”18; đối với thiếu nhi, Người ân cần nhắc: “Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu”19 và “Các cháu nhi đồng phải ngoan ngoãn, giữ gìn sức khỏe trong kỳ nghỉ hè để tiếp tục bước vào năm học mới”20; đối với thanh niên, Người khích lệ: “Bác mong các cháu đoàn kết chặt chẽ, dũng cảm lao động và chiến đấu, giữ gìn sức khỏe, cố gắng học tập, lập nhiều thành tích chống Mỹ, cứu nước, để xứng đáng là thanh niên anh hùng của dân tộc anh hùng”21; đối với phụ nữ, Người nhấn mạnh: “Phải đặc biệt chú ý đến sức lao động phụ nữ. Phụ nữ là đội quân lao động rất đông. Phải giữ gìn sức khỏe cho phụ nữ để chị em tham gia sản xuất được tốt”22; đối với công nhân, Người giải thích: “Nếu công nhân đủ ăn, đủ mặc thì họ mới đủ sức; đủ sức thì làm được việc. Một con ngựa ăn no mới chạy nhanh. Một cái máy đủ dầu mỡ mới quay đều. Người ta cũng thế”23; đối với bộ đội (trong bài nói chuyện với đại biểu cán bộ, chiến sĩ Binh chủng Đặc công), Người huấn thị: “Cuối cùng, Bác chúc các đồng chí mạnh khỏe, giữ gìn sức khỏe và học tập tiến bộ thêm nhiều. Đảng, Bác và Chính phủ chờ thắng lợi, chờ báo cáo thắng lợi của các đồng chí”24… Về phần mình, Người tự làm gương thường xuyên tập thể dục, rèn luyện thể thao, như Người nói: “Tự tôi, ngày nào tôi cũng tập”25.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm sóc sức khỏe nhân dân thời kỳ đổi mới
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách liên quan đến vấn đề này.
Ngày 14/01/1993, Ban Chấp hành Trung ương khóa VII ban hành Nghị quyết Trung ương 4 về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Từ đó đến nay, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trên lĩnh vực này.
Hệ thống chính sách, pháp luật ngày càng được hoàn thiện. Mạng lưới cơ sở y tế phát triển rộng khắp. Đội ngũ thầy thuốc và cán bộ, nhân viên y tế phát triển cả về số lượng và chất lượng. Ngân sách nhà nước và nguồn lực xã hội đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân ngày càng tăng. Chính sách tài chính y tế có nhiều đổi mới; diện bao phủ bảo hiểm y tế ngày càng được mở rộng. Tỉ lệ chi tiền túi của hộ gia đình cho khám, chữa bệnh giảm nhanh. Ứng dụng công nghệ thông tin từng bước được đẩy mạnh.
Y tế dự phòng được tăng cường, đã ngăn chặn được các bệnh dịch nguy hiểm, không để xảy ra dịch lớn. Các yếu tố ảnh hưởng tới sức khoẻ như môi trường, thực phẩm, rèn luyện thân thể, đời sống tinh thần… được quan tâm hơn. Năng lực và chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên, tiếp cận được hầu hết các kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Lĩnh vực dược, thiết bị y tế có bước tiến bộ. Mô hình kết hợp quân - dân y được đẩy mạnh, phát huy hiệu quả, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Các chỉ số sức khoẻ, tuổi thọ bình quân được cải thiện. Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá là điểm sáng về thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Đạo đức, phong cách, thái độ phục vụ, trình độ chuyên môn của cán bộ y tế được chú trọng, nâng cao. Nhiều tấm gương y bác sĩ tận tuỵ chăm sóc, cứu chữa người bệnh được xã hội trân trọng, ghi nhận.
Tuy nhiên, quán tiệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chăm sóc sức khỏe nhân dân là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, lâu dài của Đảng và Nhà nước, trong bối cảnh tình hình mới, ngày 25/10/2017, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TWVề tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới. Nghị quyết tiếp tục đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tầm nhìn đến năm 2030, nhằm lãnh đạo công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng tốt hơn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Tiến Duy (Tổng hợp)
____________________________________
(1), (2), (3), (6), (25) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.241; tr.241; tr.241; tr.241; tr.241
(4), (12), (18), (23) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.487; tr.114; tr.291; tr.123
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.70
(7), (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Sđd, tr.154; tr.154.
(8), (9), (16), (17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.518; tr. 343-344; tr.343; tr.343
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.487
(11) Một số vấn đề xây dựng ngành y tế phát triển ở Việt Nam, Nxb. Y học, Hà Nội, 1998, tr.167
(19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.186
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.644
(21), (22), (24) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.164; tr.259; tr.320