Nhiều nghi lễ của cộng đồng người Dao luôn có sự hiện diện của thầy Tào, người phụ trách các nguyên tắc và thủ tục tín ngưỡng của cả cộng đồng. Thầy Tào không chỉ là người kết nối thế giới linh thiêng với con người theo quan niệm của người Dao, mà từ góc độ văn hóa, thầy Tào chính là người lưu giữ truyền thống, là chìa khóa mở ra kho tàng tri thức độc đáo của cả tộc người. Có một điều thú vị là, ở đâu có thầy Tào, ở đó có sách chữ Nôm Dao.
Các cuốn sách cổ bằng chữ viết Nôm Dao chứa đựng cả kho tàng tri thức văn hóa của người Dao. Nguồn ảnh: dantocmiennui
Sách chữ Nôm Dao được các thầy Tào sử dụng như một công cụ tâm linh, tuy nhiên kiến thức trong mỗi cuốn sách đó mang những giá trị riêng về lịch sử, văn hóa. Giá trị đầu tiên phải kể đến chính là chữ viết Nôm Dao. Chữ “Nôm Dao” thoạt nhìn không khác gì hệ thống chữ Hán, nhưng đó là một hệ thống ký tự chữ Hán được phiên âm ra tiếng Dao. Tức là người Dao mượn chữ Hán để ghi chép tiếng nói của mình. Tất nhiên kết quả sử dụng chữ Hán để ghi tiếng Dao không hề giống với hệ thống Hán Việt. Tuy vậy, cách đọc chữ Hán của người Dao tạo nên hệ thống phiên âm khác với tiếng Dao bình dân của lời ăn tiếng nói thường ngày, hệ thống này được gọi là tiếng Dao “văn chương”. Có lẽ vì thế mà phạm vi sử dụng của chữ Nôm Dao là khá hạn chế. Kho từ vựng của tiếng Nôm Dao cũng được bổ sung bởi các ngôn ngữ của tộc người khác để đáp ứng nhu cầu biểu đạt, điển hình như các từ ngữ Nôm Tày, Nôm Việt và được tiếp nhận với xu hướng Dao hóa, góp phần làm phong phú thêm cho ngôn ngữ tộc người Dao.
Quyển sách dạy chữ cho người Dao còn được truyền lại đến ngày nay chính là cuốn “Tam tự kinh” nổi tiếng trong truyền thống Nho học, tuy vậy cách đọc những chữ Hán trong cuốn này đều đã được Dao hóa, và phải là người tinh thông về cách đọc của người Dao mới có thể phân biệt được những âm đọc nhiều khi "na ná" giống nhau kèm theo nghĩa trong đó. Người Dao ở những khu vực khác nhau, cách đọc chữ Nôm Dao cũng có sự khác biệt, do có sự chuyển dịch về địa lý và sự giao lưu về ngôn ngữ với những cộng đồng xung quanh. Tuy nhiên về cơ bản, chữ Nôm Dao vẫn có thể coi là một trong những biểu hiện cho tính thống nhất và quy tụ của tộc người Dao.
Theo các văn bản còn lại cho thấy, chữ Nôm Dao phần lớn được viết trên giấy dó, một số được viết trên vải hoặc khắc trên gỗ. Số lượng thư tịch cổ còn lại là các sách thiên văn, địa lý, kinh phật, truyện cổ tích, thơ ca, sách cúng, gia phả... Sách chữ Nôm Dao thông thường được các gia đình người Dao lưu giữ và truyền lại qua nhiều thế hệ, nhưng số lượng người đọc được không nhiều. Những người hiểu được chữ Nôm Dao đa phần là các thầy Tào hoặc bộ phận trí thức cao tuổi người Dao.
Lớp học chữ Nôm Dao. Nguồn ảnh: dantocmiennui
Theo như nhiều người Dao kể lại, tổ tiên của họ từ xưa đã biết sử dụng chữ viết để ghi chép lại các văn tự quan trọng như chia tài sản của bố mẹ cho con cháu, văn tự mua, bán ruộng nương, nhận con nuôi, gia phả trong dòng họ. Đặc biệt chữ viết của người Dao còn được dùng phổ biến trong các lễ hội như lễ cấp sắc, tết nhảy và tục treo tranh. Xưa kia, để bảo tồn chữ viết của dân tộc mình, các gia đình, dòng họ người Dao thường tổ chức truyền dạy chữ Nôm Dao cho con cháu vào dịp đầu xuân năm mới. Đây cũng là dịp để tuyên dương việc học chữ, dạy con trẻ về lễ nghĩa, học nghề và học làm người. Tiếc rằng, truyền thống đó không còn được người Dao duy trì cho đến hôm nay.
Trước sự giao thoa giữa văn hoá truyền thống và văn hoá hiện đại, cùng với sự hội nhập mạnh mẽ của những cộng đồng văn hóa, chữ viết của một số dân tộc thiểu số đang dần bị mai một, trong đó chữ viết của đồng bào dân tộc Dao thực sự đang chìm dần vào lãng quên, khi số lượng những người đọc được nó giờ chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, trong khi họ phần lớn đều đã có tuổi, còn thế hệ trẻ thì bị lôi cuốn bởi quá nhiều giá trị tân thời và thiếu những định hướng bảo tồn chữ viết ông cha. Muốn khai mở tài sản văn hóa vô giá của dân tộc Dao, trước hết cần bảo tồn được “chìa khóa”, mà đó không gì khác, chính là chữ Nôm Dao.
Hạnh Minh