Mùa Thu không chỉ của đất trời, mà còn là của lòng người. Có những mùa Thu đi vào lịch sử và có những con người đã tạo ra lịch sử của mùa Thu. Cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã gắn liền với những mùa Thu, để lại những dấu ấn sâu đậm trong tiến trình lịch sử vẻ vang của dân tộc. Đặc biệt, mùa Thu cách mạng tháng Tám 1945– mùa Thu của thắng lợi, của sự hồi sinh và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc
Mùa Thu năm 1920 - Ánh sáng soi rọi con đường cách mạng Việt Nam
Sau gần 10 năm ra đi tìm đường cứu nước, mùa Thu năm 1920, trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I Lênin. Người vui mừng, phấn khởi và sáng tỏ: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta! Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Sự kiện này đánh dấu Nguyễn Ái Quốc đã tiếp cận, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và tin tưởng vào con đường cách mạng vô sản.
GS Song Thành rất có lý khi cho rằng: “muốn mưu cầu độc lập bền vững cho Tổ quốc, tự do, cơm áo, hạnh phúc cho nhân dân thì không có sự lựa chọn nào khác ngoài con đường đi tới chủ nghĩa Mác – Lênin… Đó là sự lựa chọn của lịch sử mà Nguyễn Ái Quốc là đại diện tiêu biểu nhất”[1].
Có thể nói, ánh sáng của mùa Thu năm 1920 đã soi rọi con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến đến thắng lợi khác.
Mùa Thu năm 1945 - Ghi dấu bản anh hùng ca chói lọi của dân tộc
Nhận định thời cơ đã chín muồi khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng (15/8/1945), Hồ Chí Minh triệu tập Đại hội Quốc dân, bầu Ủy ban giải phóng dân tộc, ra Lệnh Tổng khởi nghĩa toàn quốc và kêu gọi “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[2].
Lời kêu gọi là ý chí của Đảng, quyết tâm của dân tộc, hiệu triệu toàn dân ra trận, để “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Chỉ với vài nghìn đảng viên, Đảng đã lãnh đạo 20 triệu đồng bào từ thành thị đến nông thôn, miền xuôi đến miền ngược, từ Bắc chí Nam vùng lên khởi nghĩa. Liên tiếp giành thắng lợi, từ 4 tỉnh đầu tiên Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam (18/8); Hà Nội (19/8); Thừa Thiên Huế (23/8); Sài Gòn (25/8). Ngày 30/8 vua Bảo Đại thoái vị, cách mạng tháng Tám thành công!
Ngày 2/9/1945, giữa “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”[3]. Nhớ lại sự kiện trọng đại này, ta lại nhớ những dòng thơ trào dâng cảm xúc của Tố Hữu: “Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!/ Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người/ Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ/ Mà đến bây giờ mới tới nơi”[4].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, ngày 02/9/1945 (Ảnh tư liệu)
Mùa thu năm 1950 - Chiến thắng Thu Đông, khai thông biên giới
Nếu mùa Thu năm 1945, hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập để lại nhiều cảm xúc đầy tự hào và kiêu hãnh thì hình ảnh Bác trực tiếp ra chiến dịch vào mùa Thu năm 1950, thể hiện ý chí, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng để bảo vệ nền độc lập ấy.
Trước tình thế bị thực dân Pháp dồn ép, Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Thường vụ Trung ương Đảng, quyết định mở chiến dịch biên giới Cao – Bắc – Lạng.
Ngày 02/9/1950, Bác lên đường ra mặt trận với lời căn dặn: “Chuyến đi này rất quan trọng nhưng ước khoảng trên dưới một tháng. Đường đi rất vất vả, các chú phải cố gắng để làm tròn nhiệm vụ. Phải tuyệt đối giữ bí mật, nếu làm lộ ra sẽ hại tới việc lớn, từ việc chọn đường đi, tới nơi ăn, chốn ở, giao thiệp với dân đều phải biết cách giữ gìn”[5].
Rời Sở Chỉ huy, Bác đến mặt trận Đông Khê, trực tiếp chỉ đạo đánh trận mở màn với quyết tâm “Dù khó khăn đến đâu cũng kiên quyết khắc phục đánh cho kỳ thắng trận đầu”.
Chiến dịch kết thúc, quân và dân ta thu được những thắng lợi bước đầu, tiêu hao sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, khai thông biên giới và bảo vệ vững chắc “thủ đô gió ngàn” Việt Bắc. Hồ Chí Minh đã vẽ lên một mùa Thu đẹp đẽ bằng chiến thắng Thu Đông, khởi đầu cho trang sử hào hùng: “Chín năm làm một Điện Biên. Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan sát trận địa ở Mặt trận Đông Khê năm 1950.
(Ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, ML LIII, số 402)
Mùa Thu năm 1969 - Về với thế giới người hiền
Mùa Thu là mùa của Lá rụng về cội. Mùa Thu cũng là mùa của Bác về với thế giới người hiền! Bác ra đi… là “Tổn thất này vô cùng lớn lao! Đau thương này thật là vô hạn. Dân tộc ta và Đảng ta mất một vị lãnh tụ thiên tài và một người thầy vĩ đại”.
Một con người “đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ”[6].
Sự ra đi của Người, không chỉ nỗi đau của lòng người, mà còn là của đất trời mùa Thu: “Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa. Đời tuôn nước măt, trời tuôn mưa… Chiều nay con chạy về thăm Bác. Ướt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa!”[7].
Song, với Hồ Chí Minh “Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khoẻ càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ… tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”[8].
Nếu Di Chúc của người thường, hay viết về quá khứ thì Di Chúc của Hồ Chí Minh lại là một “bản thiết kế tương lai” cho dân tộc Việt Nam. Sự ra đi…! của Người cũng rất kỳ lạ, như Chủ tịch Cuba Fidel Castro, người bạn, người đồng chí thân thiết đã viết: “Hồ Chí Minh thuộc những lớp người đặc biệt mà cái chết đã gieo mầm cho sự sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt”.
Cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn với 79 mùa thu của đất trời và lòng người. Trong đó, có những mùa Thu để lại dấu ấn sâu đậm, tạo ra những bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam. Những “Ký ức mùa thu” đẹp đẽ sẽ còn sống mãi với thời gian, là nguồn cổ vũ, động viên tinh thần to lớn cho chúng ta hôm nay thêm sức mạnh, ý chí để xây dựng, phát triển đất nước “đàng hoành hơn, to đẹp hơn” như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hòa Phạm
[1] Song Thành: Hồ Chí Minh – Nhà tư tưởng lỗi lạc. Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr.62.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3. Nxb. Chính trị quốc gia -Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.596.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.3.
[4] Thơ Tố Hữu: Theo chân Bác, tháng 01/1970.
[5] Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch: 125 chuyện kể về Bác Hồ, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, tr.50.
[6] Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, in trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, Sđd, tr.626.
[7] Thơ Tố Hữu: Bác ơi, ngày 6/9/1969.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.623.