Đồng chí Tôn Đức Thắng (20/8/1888-30/3/1980), với 92 tuổi đời, gần 70 năm hoạt động cách mạng liên tục, là người sáng lập tổ chức Công hội đầu tiên, người chiến sĩ tiên phong và vị lãnh tụ của giai cấp công nhân, đã có những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân
Sáng lập tổ chức Công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam
Sinh ra trong một gia đình nông dân tại Cù lao Ông Hổ, xã Mỹ Hòa Hưng, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên, nay thuộc TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang, tiếp thu truyền thống văn hóa, lịch sử của dân tộc, với tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, người thanh niên Tôn Đức Thắng đã sớm gắn bó với giai cấp công nhân Việt Nam, cùng lao động và tham gia phong trào đấu tranh của những người thợ. Ngay từ khi 24 tuổi, Tôn Đức Thắng đã tham gia lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Xưởng Ba Son và bãi khóa của học sinh Trường Bách nghệ Sài Gòn.
Qua những năm trực tiếp hoạt động trong phong trào công nhân, lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh bãi công, bãi khóa, Tôn Đức Thắng đã nhận thức được vai trò lãnh đạo của tổ chức Công đoàn đối với giai cấp công nhân. Đồng chí cho rằng: phải thông qua tổ chức và bằng con đường tổ chức, công nhân mới ý thức được sứ mệnh và sức mạnh của mình trong cuộc đấu tranh với kẻ thù của giai cấp, đem lại lợi quyền thiết thực cho giai cấp mình.
Từ những cuộc vận động công nhân tham gia vào các hội tương tế, ái hữu, khoảng cuối năm 1920, cùng với một số công nhân, Tôn Đức Thắng đã lập ra Công hội bí mật ở Sài Gòn - tổ chức công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của đồng chí, Công hội bí mật đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh, tiêu biểu nhất là cuộc bãi công vào tháng 8/1925 của hơn 1.000 công nhân Xưởng Ba Son ủng hộ giai cấp công nhân Trung Quốc, phản đối sự câu kết giữa thực dân Pháp với chính quyền Trung hoa Dân quốc đàn áp công nhân ở Quảng Châu.
Cuộc bãi công của công nhân Ba Son thể hiện năng lực tổ chức, ý thức giác ngộ, đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế; kết hợp chặt chẽ giữa khẩu hiệu đấu tranh kinh tế với mục tiêu đấu tranh chính trị.
Đặc biệt, cuộc bãi công của công nhân Ba Son đã có tiếng vang lớn, vượt khỏi phạm vi trong nước và sự kiện này được đề cập trên diễn đàn Đại hội VI Quốc tế Cộng sản năm 1928.
Đồng chí Tôn Đức Thắng tại Đại hội "Ba sẵn sàng" toàn miền Bắc (Ảnh tư liệu)
Thành công của cuộc đấu tranh cho thấy sức mạnh của Công hội và vai trò, uy tín của người đứng đầu Tôn Đức Thắng. Thắng lợi này cũng khẳng định sự chuyển biến mạnh mẽ của phong trào công nhân Việt Nam từ “tự phát” lên “tự giác”; khẳng định vai trò, chức năng của Công hội trong việc vận động, tổ chức công nhân hướng vào cuộc đấu tranh yêu nước vì nền độc lập dân tộc, vì quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của người lao động.
Người cộng sản mẫu mực, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân
Chọn hướng đi cùng với giai cấp công nhân, từ những cuộc đấu tranh của phong trào công nhân trong nước, Tôn Đức Thắng đã đến với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đến với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Công hội bí mật là cơ sở thực tiễn để Tôn Đức Thắng sớm đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc.
Đầu năm 1927, Tôn Đức Thắng gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên và đóng vai trò tích cực trong việc thành lập Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên Nam Kỳ.
Từ giữa năm 1927, trên cương vị Ủy viên Ban Chấp hành Kỳ bộ, đồng chí đã tham gia vận động thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Tháng 7/1929, Tôn Đức Thắng bị thực dân Pháp bắt, kết án 20 năm khổ sai và bị đày ra Côn Đảo.
Trong những năm tháng bị giam cầm nơi “địa ngục trần gian”, đồng chí luôn nêu cao tinh thần cách mạng, ý chí đấu tranh và vững tin vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Hình ảnh người “cặp rằn” (người cai tù) trong hầm xay lúa - nơi “địa ngục của địa ngục trần gian”, hiên ngang và không khuất phục trước cai ngục Pháp song tràn đầy tình thương và lòng cảm hóa sâu sắc những người tù đã thể hiện phẩm chất cách mạng cao quý của người cộng sản Tôn Đức Thắng.
Trở về đất liền sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí tham gia ngay vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Trên nhiều cương vị khác nhau, Tôn Đức Thắng đã góp phần tích cực vào thắng lợi của cuộc kháng chiến, kiến quốc. Đồng chí là biểu tượng sinh động cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt trong giai đoạn đất nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Với cương vị là người lãnh đạo cao nhất của Nhà nước, đồng chí đã cùng Trung ương Đảng, Nhà nước lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc và đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tại Kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất vào tháng 7/1976, đồng chí được bầu là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chủ tịch Tôn Đức Thắng thăm một đơn vị tự vệ tại Hà Nội, năm 1972 (Ảnh tư liệu)
Chiến sĩ quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
Đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những công nhân Việt Nam đầu tiên hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Đồng chí đã tham gia cuộc nổi dậy của hải quân Pháp ở Biển Đen, kéo lá cờ đỏ trên một chiến hạm Pháp (tháng 4/1919), ủng hộ nước Nga Xôviết, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, chống sự can thiệp vũ trang của các nước đế quốc đối với Nhà nước Xôviết non trẻ.
Với những việc đó, đồng chí Tôn Đức Thắng đã trở thành một gạch nối của Cách mạng Nga với Cách mạng Việt Nam, gạch nối cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
Gần 70 năm hoạt động cách mạng, với nhiều cống hiến trọn vẹn, liên tục, có hiệu quả cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những nhà lãnh đạo tiêu biểu cho tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng, thuỷ chung, được bạn bè thế giới ghi nhận và tôn vinh.
Đồng chí được bầu làm Chủ tịch danh dự Ủy ban bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam; Uỷ viên Hội đồng hoà bình thế giới; Chủ tịch Hội hữu nghị Việt-Xô.
Trên cương vị nào, đồng chí cũng luôn chăm lo tình đoàn kết quốc tế, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân ta với bầu bạn trên thế giới. Đồng thời bày tỏ khát vọng hòa bình, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam, kêu gọi nhân dân thế giới giúp đỡ Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với công lao, đóng góp to lớn cho phong trào hoà bình thế giới, đồng chí vinh dự là người Việt Nam đầu tiên được Uỷ ban Giải thưởng hoà bình quốc tế Stalin của Liên Xô trao tặng Giải thưởng Stalin “Về sự nghiệp củng cố hoà bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc” vào tháng 12/1955 (sau này mang tên là Giải thưởng Lênin); được Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô trao tặng Huân chương Lênin nhân dịp kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và huân chương hữu nghị của nhiều nước.
Trên những trọng trách công tác được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, đồng chí Tôn Đức Thắng luôn thể hiện nổi bật lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, một người cộng sản kiên cường, mẫu mực, người lãnh đạo uy tín của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, “một trong những người bạn chiến đấu thân thiết lâu năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, người kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ trung thành của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Dương Minh