Yasunari Kawabata (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông là người thứ hai ở Châu Á được trao tặng giải Nobel Văn học năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cánh hạc và Cố đô).
Nhà văn Yasunari Kawabata
Văn học Nhật Bản mang đặc thù riêng của một nền văn chương duy cảm, duy mỹ. Với người Nhật, mọi vẻ đẹp dù giản dị, khiêm nhường hay kiêu sa lộng lẫy đều thuộc về thế giới quanh ta, đó là cái đẹp đang hiện hữu, cái đẹp rất đời thực. Từ cảm quan ấy, văn chương Nhật Bản thấm đẫm tính duy mỹ, duy tình. Với giải Nobel Văn học năm 1968, Kawabata là người đem lại vinh quang cho văn học Nhật Bản nói riêng và văn học Châu Á nói chung. Ông là đại biểu kế thừa và phát triển tinh hoa truyền thống của Nhật Bản cả tính duy cảm và duy mỹ mà Mishima Yukio gọi là “Người lữ khách muôn đời đi tìm cái đẹp”, “Người cứu rỗi cái đẹp”.[1]
Cái Đẹp là dòng suối mát lành để văn chương Nhật Bản tắm đẫm qua nhiều thế kỷ. Bước sang thời đại “làn sóng mưa Âu, gió Mỹ” từng làm nhiều nhà văn trẻ ngã lòng nhưng Yasunari Kawabata, người lữ khách muôn đời đi tìm cái đẹp vẫn tin tưởng rằng “nền văn chương phương Đông, nhất là kinh Phật là nền văn chương vĩ đại nhất của thế giới… Tôi muốn viết một tác phẩm tên là Bài ca phương Đông (Tohowata), đó sẽ là bài ca tươi đẹp của tôi… Tôi có thể chết trước khi bài ca đó thành tựu nhưng hãy biết rằng tôi đã dự trù cả một chương trình trong tâm trí của mình”,[2] người lữ khách Kawabata đã lang thang trên muôn nẻo cuộc đời tìm về với vẻ đẹp truyền thống Nhật Bản. Cái đẹp được cảm nhận như một nhân vật chính xuyên suốt cuộc đời và văn phẩm của ông. Kawabata là người đề xướng trường phái Tân cảm giác trên văn đàn Nhật bộn bề các khuynh hướng nghệ thuật những thập niên đầu thế kỷ XX. Trường phái Tân cảm giác đề cao vai trò của trực giác trong việc cảm thụ cái đẹp. Đó là sự cảm nhận trực tiếp, là những rung động tình cảm cùng tần số với cái đẹp mà nếu dùng lí trí để mổ xẻ sẽ làm tổn thương đến nó. Đấy chính là thái độ trân trọng cái đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ bén nhạy, tinh tế.
Quan điểm mỹ học của Kawabata là cái đẹp sâu thẳm sinh ra từ cội nguồn triết lý phương Đông và vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của người phụ nữ xứ Phù Tang ngọt ngào, nét đặc trưng của các bộ môn nghệ thuật truyền thống, dòng văn chương duy mỹ, duy tình chảy qua nhiều thế kỷ từ tập “Vạn diệp lục” và bao trùm hơn cả là linh hồn của vạn vật trong Thần đạo đã quyện với cái tình của Thiền Tông tạo nên một triết lý mỹ học Kawabata. Kinh nghiệm nghệ thuật của Kawabata chịu ảnh hưởng rõ rệt của mỹ học Thiền luận, dựa vào suy niệm bên trong. Những quan niệm thẩm mỹ truyền thống của người Nhật như Aware, Wabi, Sabi, Yugen hội tụ đầy đủ trong các sáng tác của ông và chỉ có thể cảm nhận mà khó có thể gọi tên một phạm trù thẩm mỹ nào. Như một tấm gương trong suốt, như tuyết trên núi hay nước trong hồ thu, thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản luôn soi chiếu và hòa tan vào những văn phẩm tuyệt vời của Kawabata. Nhà văn Kawabata cho rằng cái Đẹp là hiện hữu trên thế gian này cho dù nó vô cùng mong manh nhưng được bắt rễ từ cội nguồn cuộc sống. Không gửi niềm tin hư vô vào tôn giáo siêu hình, thế giới nhân vật mang sứ mệnh biểu lộ sự tinh khiết, chân thành và làm nên cái Đẹp của Kawabata là ở trẻ nhỏ, các cô gái mới lớn và những người sắp chết. Họ là những người có đôi mắt thơ ngây, cảm xúc tinh khiết, không tham lam, không thèm muốn, không chiếm đoạt, không hủy diệt. Đó là cái đẹp, sự chân thành và nỗi buồn làm cho cảm xúc lắng sâu trong cuộc sống. Kawabata cho rằng cái đẹp trong lòng nhân sinh là đạo và cái đẹp là một kinh nghiệm tâm linh. Kinh nghiệm ấy có được là do sự nhạy cảm của người nghệ sĩ và trên hành trình tìm kiếm biểu hiện trong các văn phẩm của ông thành một giá trị vĩnh hằng và bất biến. Những tác phẩm của ông “vượt lên tất cả những tầm thường trần tục để chỉ còn lại là một cái đẹp vĩnh cửu của một hiện thực tích cực, giàu sức sống và thuần khiết” trên nguyên tắc phản ánh cái đẹp là “tìm tòi và tôn vinh cái đẹp trong một hiện hữu hỗn tạp giữa cái thiện và cái bất thiện, giữa cái tinh khiết và cái dung tục, giữa sự chân thành và sự giả dối, giữa những phù hoa giả tạo bề ngoài và chiều sâu thăm thẳm của nội cảm”.[3]
Kawabata là vẻ đẹp tâm hồn Nhật Bản và tác phẩm của Kawabata không chỉ là “hình nay bóng cũ” (Ngàn cánh hạc) mà còn là “hình nay, hồn nay” trong khát vọng cái đẹp hoàn hảo (Ngàn cách hạc, Xứ tuyết). Cùng chung cảm hứng về cái đẹp, Người đẹp say ngủ được chắp cánh bằng kỹ thuật viết văn hiện đại phương Tây. Toàn bộ tác phẩm được tái hiện qua dòng hồi tưởng của ông già Eguchi. Năm lần Eguchi đến lữ quán là năm mảng ghép của quá khứ được đan xen trong hiện tại và xuyên suốt tác phẩm là nghệ thuật tương phản được khai thác triệt để cho vẻ đẹp được lộ diện và có những mối kết nối liên tưởng. Yếu tố tương phản rõ rệt nhất là không gian, thời gian được xây dựng như một dụng ý nghệ thuật. Kawabata đã để cho cái đẹp xuất hiện trong không gian nhỏ của hiện tại “dưới làn ánh sáng mờ ảo, màu đỏ kia bỗng tạo một cảm giác rất mạnh như thể phía trước tấm màn nhung đỏ ấy là một làn ánh sáng huyền bí.”[4] Trong vòng quay của quy luật thời gian, tuổi tác có thể làm cho con người già nua, xấu xí nhưng Eguchi và những ông già khác tới ngôi nhà này để ngắm những người đẹp ngủ say là để một lần nữa nhìn lại mình trong quá khứ, nuối tiếc cái đẹp mong manh không cưỡng lại được quy luật nghiệt ngã của thời gian. Cái Đẹp đã thanh lọc và để họ vượt thoát lên sự dung tục, tầm thường của dục vọng mà thuận theo nó như một lẽ tự nhiên. Đồng thời, cũng khẳng định bản chất của cái đẹp là bất biến trên đường biên của tuổi trẻ và tuổi già, vẻ đẹp ký thác từ thân thể đẹp cả những cô gái thành tâm hồn tinh khiết của người già. Y. Kawabata đã thành công trong việc thể hiện cái đẹp bằng khả năng trần thuật. Dòng hồi tưởng của nhân vật cho phép bộc lộ vẻ đẹp của các nhân vật vượt thoát khỏi rào cản của không gian và thời gian. Vẻ đẹp hiện tại đồng hiện với vẻ đẹp của quá khứ, không gian của ngôi nhà khép kín bên bờ biển trở nên lung linh cùng với vẻ đẹp của các cô gái ở những không gian khác rộng lớn hơn. Dù các cô gái trong hiện tại ngủ say và có lúc là những câu nói mê vô thức đã cho thấy cái đẹp trong câm lặng có khả năng khơi gợi vẻ đẹp của quá khứ rất mãnh liệt, sống động và mỗi cô gái đều khơi gợi lên những ký ức sống mãi, vẻ đẹp bất biến không phai mờ theo thời gian. Những cô gái trong Người đẹp say ngủ dù đang say ngủ nhưng trong tư thế ngủ ấy vẻ đẹp vẫn toát lên sống động. Dù chìm sâu trong ký ức, trong lặng câm của không gian, thời gian nhưng tâm hồn họ vẫn gửi lại nỗi da diết, u buồn bởi nó là nơi sâu thẳm cho mọi vẻ đẹp ký thác. Bản chất của cái đẹp không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp trên cơ thể của các cô gái mà sâu xa hơn đó là vẻ đẹp đầy sức sống của tuổi trẻ. Bên cạnh sự lão suy của các ông già thì vẻ đẹp của các cô gái không ngừng lớn lên và đẹp rực rỡ hơn.
Kawabata cho rằng phương thức biểu thị cái Đẹp là mục đích của người nghệ sĩ, không phải là tìm cách làm cho mọi người kinh ngạc sửng sốt bằng sự ly kỳ quái dị mà phải biết dùng vào những phương tiện ít ỏi nhưng thể hiện được nhiều nhất, biết dùng ngôn ngữ và màu sắc để truyền đạt các cảm xúc và kinh nghiệm nhìn đời của mình. Tác phẩm của Kawabata có sức gợi hơn tả, hình tượng nghệ thuật được xây dựng bởi những hình ảnh tượng trưng và sử dụng một cách cô đọng hoàn hảo nhất. Sự hóa thân cái Đẹp trong hình tượng tác phẩm của ông luôn biểu hiện rất trần thế, từ con người tới thế giới đồ vật. Nghệ thuật biểu hiện cái Đẹp trong quan niệm mỹ học Kawabata là thi pháp chân không - một phương tiện hữu hiệu truyền tải cái đẹp trong thơ Haikư và thành đắc địa trong sáng tác của ông. Thế giới của chân không trong mỹ học Kawabata không tách rời thế giới của cảm giác từ những chi tiết, sự vật nhỏ nhất cũng đem lại cảm giác chân thực gợi cảm. Là người lữ khách muôn đời đi tìm cái đẹp, bóng hình của các giai nhân là cảm xúc chủ đạo trong sáng tác của Kawabata. Cuộc sống là những chuỗi rắc rối, rườm rà, có thể là con đường quanh co hay con đường thẳng thì cái đích cuối cùng mà mọi người hướng tới đó là cái Đẹp.
Cái Đẹp luôn hiện hữu trong các sáng tác của Kawabata, đó là cái đẹp hình và bóng, cái đẹp trong lặng lẽ u buồn. Là người nghệ sĩ suốt một đời lang thang để đi tìm kiếm cái đẹp, Kawabata “là hiện tượng kì diệu nhất của văn học Nhật Bản thế kỷ XX.”[5] Ông cất lên những bài ca của nỗi lòng đầy nuối tiếc cho một vẻ đẹp Nhật Bản và luôn dành hết tâm lực của mình vào tác phẩm để cái đẹp trở nên bất tử và đáng tôn thờ nhất. Người đẹp say ngủ là một tác phẩm văn chương hiện đại, không gian của tác phẩm không giàu chất thơ, kết cấu truyện đơn giản nhưng sức chứa đựng trong nó thật lớn lao. Tác phẩm mang thông điệp của nhà văn Kawabata “tôi thuộc về vẻ đẹp truyền thống Nhật Bản” và như sự thông nối giữa hiện đại với truyền thống, duy trì đặc tính duy cảm, duy mỹ của văn học Nhật Bản, của mỗi người Nhật Bản xưa nay.
[1] Nhật Chiêu, Nhật Bản trong chiếc gương soi, Nxb Giáo dục, Đà Nẵng 2003, tr. 156
[2] Yasuanari Kawabata, Tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao động, Hà nội 2005, tr.1071.
[3] Khương Việt Hà, Mỹ học Kawabata, Tạp chí văn học số 6 năm 2000, tr.69.
[4] Tuyển tập Y.Kawabata, Nxb Hội nhà văn, thành phố Hồ Chí Minh, 2001, tr.395.
[5] Nhật Chiêu, Nhật Bản trong chiếc gương soi, Nxb Giáo dục, Đà Nẵng 2003, tr.157.
Khánh An