Kho tàng văn hoá dân gian của người Nùng phong phú về nội dung và đa dạng về thể loại, trong đó những làn điệu dân ca truyền thống đã góp phần quan trọng hình thành nên bản sắc văn hoá tộc người. Những làn điệu dân ca truyền thống của người Nùng được hình thành trong lao động sản xuất và đời sống sinh hoạt hàng ngày, bao gồm: Lượn Nàng ới, Dá hai, Pựt lằn, Lượn Phủ, Sli Giang, Sli La Hòi, Xà xá, Hèo phưn, Hát Ru, Đồng dao, Lượn Slam khót, Này sli, Hát trong tang lễ.
Phụ nữ Nùng trong trang phục truyền thống. Ảnh: Internet
Lượn Nàng ới (Lịn thại) là thể loại có câu hát tùy thuộc vào tình huống, câu dài, câu ngắn, lời ca bóng bẩy, mượt mà, hình ảnh trong sáng cuốn hút lòng người. Lượn Nàng ới được thanh niên nam nữ say mê hát theo trình tự nhất định. Mở đầu cuộc lượn có các bài hát làm quen, chào mời. Tiếp theo là lượn về tình yêu như: hát tình, hát yêu, hát hoa, hát về nhà cửa, hát cưới xin, hát đi chợ, hát về vầng trăng sáng như gương soi,… Sau đó là lượn về các tích chuyện cổ như Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài và kết thúc cuộc lượn là khúc hát giã bạn.
Dá hai là loại hình nghệ thuật diễn xướng tuồng truyền thống trên sân khấu với 6 làn điệu chủ yếu là Phìn Tiảo, Thán Tiảo, Sai Vá, Hý Tiảo, Thiều Tiảo, Sấu Pán và hòa cùng các nhạc cụ như: nhị bố giọng trầm ấm áp, nhị mẹ giọng thanh cao, chũm chọe, sáo trúc, trống bỏi gõ nhịp hòa tấu đã biểu đạt sinh động nhiều nội dung và chủ đề trong xã hội. Những tích truyện cổ được diễn xướng như: Phạm Tải - Ngọc Hoa, Hoa Mộc Lan tòng quân, Hoa phù dung, Tống Chân - Cúc Hoa, Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài,… Giai điệu khúc tứ Dá hai uyển chuyển mềm mại, réo rắt, lắng sâu, rồi vút bay lên, miên man theo cốt truyện và trạng thái tâm lý của nhân vật.
Pựt lằn là làn điệu có nhịp điệu nhanh được lưu truyền trong dân gian theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Nội dung những làn điệu Pựt lằn phản ánh đời sống tinh thần và các lĩnh vực trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của con người.
Lượn Phủ (Hà lều) là hình thức hát giao duyên của các đôi nam nữ, mỗi bên bao gồm hai người và ứng tác tại chỗ. Lượn Phủ thường được hát tại chợ phiên, trong lễ hội hoặc đi đường gặp bạn bè khác giới,... Lượn Phủ có hai thể gồm: thể thông thường là 14 chữ hai câu và thể thứ hai là lượn tặc, lượn lặn có láy đi láy lại bốn câu với nội dung phản ánh cuộc sống sinh hoạt của người Nùng.
Sli Giang (Vàng dà) là làn điệu hát đối đáp giao duyên giữa hai bên nam, nữ của người Nùng Giang sinh sống chủ yếu ở các huyện Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Hà Quảng. Nội dung của những làn điệu Sli Giang là ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên, cuộc sống mới tươi đẹp ấm no, hạnh phúc và được diễn ra ở nhiều nơi, tại chợ phiên, lễ hội xuân, gặp nhau trong lao động sản xuất, mừng nhà mới....
Sli La Hòi là những làn điệu hát giao duyên của thanh niên nam nữ người Nùng La Hòi cư trú chủ yếu ở Phục Hòa. Nội dung và không gian thể hiện của những làn điệu Sli La Hòi cũng giống như những làn điệu của Sli Giang nhưng khác nhau ở cách gieo vần từ ngữ và thể thức hát là hát đơn đối đáp.
Xà xá là điệu hát đậm chất dân gian, trữ tình của người Nùng Giang. Xà xá có thể hát đơn, hát đôi, hát tốp ca hoặc đồng ca. Vào mùa xuân, trai gái trong bản làng rủ nhau đi chơi, cầu may lấy lộc và trước lúc khởi hành thì dâng rượu, dâng trà, hát tụng trước Thổ công (Thành hoàng) để cầu mong được phù hộ cho vạn sự như ý. Sau mỗi câu hát sẽ khua một hồi trống chiêng náo nhiệt và Xà xá thường hát hai câu một theo thể thất ngôn nhị cú. Với giai điệu bay bổng trữ tình, Xà xá bày tỏ tình cảm trong giao lưu hoặc tình yêu giữa nam nữ.
Hèo phưn là làn điệu dân ca hát đôi của người Nùng An với một giọng cao luôn chủ động "dẫn đường” về tiết tấu, cao độ, trường độ, đúng nhịp, luyến láy và giọng thấp hòa theo nâng đỡ như trợ sức vươn cho giọng cao. Hèo phưn có khổ thơ theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt, lời Hèo phưn theo thể cổ phong với ý tứ sâu lắng, đằm thắm biểu đạt tấm lòng thủy chung son sắt, tình nghĩa sâu xa mặn nồng, mến khách của người Nùng An Phúc Sen. Hèo phưn thường được hát trong các lễ hội, đám cưới, hội chợ, chúc thọ, hát giao duyên, mừng nhà mới, cầu mùa,… Một số bài hát Hèo phưn tiêu biểu như: Khúc hát Thanh minh, Mời rượu, Tháng tư, Mùa thu, Mừng nhà mới, Mừng thọ, Mười hai con giáp.
Hát Ru của người Nùng thường mở đầu có câu ứ nọng nòn, lời theo thể thơ 5 chữ và chữ thứ 5 câu trên vần với chữ thứ 2 hoặc chữ thứ 3 của câu tiếp theo và giai điệu hát ru mượt mà, êm ái. Nội dung của các bài hát miêu tả cuộc sống lao động nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi và được thể hiện qua những hình ảnh ngộ nghĩnh như con khỉ nhổ mạ, con ngựa cấy lúa, mẹ gà tha mồi, mẹ đi ruộng lấy cá,....
Đồng dao là những bài ca dao dành cho trẻ thơ chứa đựng nhiều nội dung phản ánh cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của con người như: lao động sản xuất, về các loài vật, nghề truyền thống như rèn, đúc, đan lát,… Các bài hát Đồng dao thường theo thể thơ bốn chữ hoặc năm chữ và có đoạn chỉ ba chữ, câu sau vần với câu trước.
Lượn Slam khót là những làn điệu hát giao duyên của người Nùng Khen lài. Trong hát giao duyên, người Nùng Khen lài thường sử dụng Tài sli dùng để hát ban đêm và Lượn Slam khót để hát ban ngày. Mỗi cuộc hát giao duyên thường gồm ba chặng: Mở đầu là mời nhau hát để chúc mừng, chào hỏi, làm quen gồm: Sli xỉnh, Sli tóp, Lượn xỉnh. Tiếp theo là là phần hát dài hơi nhất gồm: Sli kến, Lượn kến, Sli tổ, Sli tích (Sli kết, Lượn kết, Sli đố, Sli các tích chuyện xưa). Cuối cùng là hát từ giã, nhắn nhủ hẹn gặp lại gồm: Sli piảc, Lượn Piảc (Sli chia tay, Lượn giã bạn).
Này sli là làn điệu dân ca của dân tộc Nùng Cháo phản ánh nhiều chủ đề trong đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất của người Nùng. Làn điệu Này sli theo thể thơ thất ngôn trường thiên, giai điệu êm ái, nhẹ nhàng còn là làn điệu hát giao duyên trong các lễ hội mùa xuân, Hội chợ để bộc bạch tâm tư tình cảm.
Hát trong tang lễ: Là những bài hát bày tỏ tình cảm yêu thương quý trọng với người đã khuất và dẫn hồn người mất về với tổ tiên. Các bài hát trong tang lễ được người Nùng chuẩn bị trước và theo thứ tự nghi lễ như: hát đi lấy nước, phá ngục, cầu siêu, thông đường lên thượng giới, tế lễ, chia ly. Các bài trong tang lễ có giai điệu riêng kết hợp với các loại nhạc cụ: trống, thanh la, não bạt, kèn,… do thầy tào và nhóm đệ tử tiến hành.
Những làn điệu dân ca của người Nùng là phương tiện giao tiếp, lời tâm sự thể hiện tình cảm của con người được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Qua thời gian, những làn điệu dân ca truyền thống được các thế hệ người Nùng tiếp tục duy trì và hoàn thiện hơn.
Khánh An