Ngày 21/7/1954, Hiệp định Geneva về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Nhiều năm qua, các thế lực thù địch ở cả trong và ngoài nước lại vẫn luận điệu cũ, xuyên tạc trắng trợn rằng chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phá hoại hòa bình, vi phạm Hiệp định nên gây ra cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn” 1954-1975. Nhưng ai mới sự thực là kẻ phá hoại hòa bình, gây ra chiến tranh?
1. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Đó không chỉ là sự nhất quán trong tư tưởng mà cả trong thực tiễn. Minh chứng rõ nét nhất là ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời với bản Tuyên ngôn độc lập chính thức công bố với toàn thể quốc dân và toàn thế giới. Ngày 6/1/1946, cử tri toàn quốc của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lần đầu tiên thực hiện quyền và nghĩa vụ thiêng liêng của mình tham gia bỏ phiếu bầu Quốc hội khóa I bao gồm các đại biểu khắp Bắc - Trung - Nam.
Ở miền Nam, sau khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, họ đã dựng lên ở đó hết chính phủ tay sai này đến chính phủ bù nhìn khác từ “Nam Kỳ quốc” tới “Quốc gia Việt Nam”, chỉ với một âm mưu duy nhất là chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam. Ngày 7/5/1954, những người lính Cụ Hồ dưới sự chỉ huy của vị Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Sau thất bại thảm hại này, thực dân Pháp phải đồng ý chấp nhận ký Hiệp định Geneva.
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ký Hiệp định Geneva (Ảnh tư liệu)
Hiệp định Geneva về Đông Dương năm 1954 có hai phần: “Thỏa hiệp” và “Tuyên bố cuối cùng”, bao gồm nhiều điều khoản, nhưng tựu trung lại thì nội dung cơ bản bao gồm: Các nước tham gia hội nghị tôn trọng quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam - Campuchia - Lào. Ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương. Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập kết về miền Bắc; chính quyền và quân đội Liên hiệp Pháp (đây là chính quyền của cái gọi là “Quốc gia Việt Nam”) tập kết về miền Nam. 300 ngày là thời gian để chính quyền và quân đội các bên hoàn thành việc tập kết. Dân chúng được tự do đi lại giữa hai miền. 2 năm sau, tức ngày 20/7/1956, sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước để thống nhất nước Việt Nam.
Như vậy, theo các quy định của Hiệp định Geneva thì Việt Nam “tạm” bị chia cắt làm hai miền với một giới tuyến quân sự tạm thời. “Giới tuyến quân sự không được coi là biên giới quốc gia và chỉ tồn tại cho đến khi hoàn thành tổng tuyển cử để thành lập chính phủ liên hiệp… Các lực lượng quân sự nước ngoài phải rời khỏi Việt Nam... Giới tuyến quân sự không được coi là biên giới quốc gia”[1]. Như vậy, giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, hoàn toàn không phải là ranh giới về chính trị và lãnh thổ, sẽ bị dỡ bỏ sau 2 năm khi tổ chức tổng tuyển cử tự do vào năm 1956.
2. Thực tiễn lịch sử đã không có cuộc bầu cử tự do nào được tổ chức sau đó, bởi Hoa Kỳ đã can dự trực tiếp vào miền Nam Việt Nam để thay chân thực dân Pháp, âm mưu phá hoại và chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam. Ở miền Nam, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam là Ngô Đình Diệm đã tổ chức “trưng cầu dân ý” ngày 23/10/1955, lật đổ Quốc trưởng Bảo Đại. Từ đó, con bài mà người Mỹ hậu thuẫn là Ngô Đình Diệm thiết lập cái gọi là “Nền đệ nhất cộng hòa” ở miền Nam Việt Nam.
Ngay từ cuối năm 1950, khi Pháp ngày càng sa lầy trên chiến trường Đông Dương, Hoa Kỳ đã dần nhảy vào Đông Dương thay thế thực dân Pháp. Một câu hỏi lớn của lịch sử là vì sao Hoa Kỳ lại can thiệp vào tình hình Việt Nam? Điều này cũng không khó để trả lời. Chắc chắn có nhiều nguyên nhân, có lẽ nguyên nhân sâu xa là Hoa Kỳ lo sợ sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo Hiệp định Geneva, điều mà gần như mọi người đều đã nhìn thấy trước kết quả. Cecil B. Currey, nhà sử học nổi tiếng người Mỹ, cho biết, năm 1956, Allen Dulles, người đứng đầu của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã đệ trình lên Tổng thống Eisenhower báo cáo tiên đoán nếu bầu cử ở Việt Nam diễn ra thì “thắng lợi của Hồ Chí Minh sẽ như nước triều dâng không thể cản nổi”. Ngô Đình Diệm chỉ có một lối thoát là tuyên bố không thi hành Hiệp định Geneva. Được Hoa Kỳ khuyến khích, Ngô Đình Diệm kiên quyết từ chối tuyển cử. Hoa Kỳ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng nền dân chủ hay không[2].
Edward Miller, tiến sĩ lịch sử Đại học Harvard, giáo sư Đại học Dartmouth (bang New Hampshire) trong cuốn “Liên minh sai lầm Ngô Đình Diệm, Hoa Kỳ và số phận Nam Việt Nam” cho rằng có ba nguyên nhân, song nguyên nhân quan trọng nhất và được giải thích phổ biến nhất hiện nay là lo ngại sự phát triển (trong sách của mình, ông gọi là “bành trướng”) của chủ nghĩa cộng sản: “Cách giải thích phổ biến nhất về quan hệ đồng minh Hoa Kỳ-Nam Việt Nam cho rằng đây là một sản phẩm của tính toán địa - chính trị của Hoa Kỳ thời Chiến tranh Lạnh. Theo lý giải này, việc Hoa Kỳ can thiệp sâu vào Đông Dương xuất phát từ các quan ngại về sự bành trướng của Xô viết. Việc ủng hộ Ngô Đình Diệm đơn thuần chỉ là bước tiếp theo trong chiến lược ngăn chặn cộng sản mà Washington đã theo đuổi tại Đông Dương từ năm 1950, khi bắt đầu cung cấp tiền, vũ khí và cố vấn cho nỗ lực chiến tranh chống lại Việt Minh của Pháp. Sau thất bại của Pháp tại Điện Biên Phủ, các nguyên thủ Mỹ cần một đối tác mới ở Việt Nam và họ không khỏi bị thu hút bởi thái độ kiên quyết chống cộng sản của Diệm[3]”.
3. Thi hành Hiệp định Geneva, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành chuyển quân tập kết ra Bắc. Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ miền Nam đã tập kết với niềm tin và hy vọng 2 năm sau sẽ trở về bằng cuộc tổng tuyển cử. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhiều lần gửi công hàm cho Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đề nghị tiến hành các bước hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước nhưng đều bị từ chối, dẫn tới việc chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn nhà báo Regards vào ngày 18/11/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng tôi thi hành triệt để các điều khoản đình chiến. Chúng tôi tiếc rằng các lực lượng Pháp không thi hành được như thế, mà còn làm trái nhiều là khác... Chúng tôi hết sức làm việc để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước Việt Nam...[4]”. Trong cuộc phỏng vấn với phóng viên Hãng thông tấn Press Trust of India vào ngày 5/1/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một trong các nhiệm vụ cấp bách của chúng tôi là thi hành đúng đắn Hiệp định Geneva và củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, độc lập, dân chủ trong toàn quốc[5]”…
Trước năm 1975, giữa Sài Gòn, nhà báo Nam Đình đã viết: “Tất cả những chế độ kế tiếp bắt đầu từ chế độ Ngô Đình Diệm cho tới ngày nay cũng trái với tinh thần Geneva vì thiếu quyền tự quyết của dân tộc. Người Mỹ đã can thiệp sâu rộng vào tất cả mọi địa hạt ở miền Nam Việt Nam từ chánh quyền cho đến tất cả các cuộc bầu cử để tạo nên Hiến pháp và Quốc hội cho xứ này[6]”. Quan điểm này tiếp tục được ông Xuân Thủy, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhấn mạnh tại phiên họp lần thứ 10 của hòa đàm Paris ngày 26/6/1968.
Gần 70 năm sau ngày Hiệp định Geneva được ký kết, 46 năm nước Việt Nam tái thống nhất, những vết thương đã lành. Những ai cố tình xuyên tạc lịch sử, “lật sử”, thì không chỉ đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc mà còn vô ơn đối với sự hy sinh xương máu của các thế hệ cha anh!
Viết Phước
---------
[1] Bộ Ngoại giao: Hiệp định Genève 50 năm nhìn lại, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.285.
[2] Cecil B. Currey: Chiến thắng bằng mọi giá (Thiên tài quân sự Việt Nam: Đại tướng Võ Nguyên Giáp), Nxb. Thế giới, 2016, tr. 333.
[3] Edward Miller: Liên minh sai lầm Ngô Đình Diệm, Mỹ và số phận Nam Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 17-18
[4] Trang tin điện tử Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh: Những cuộc trả lời phỏng vấn báo chí của Bác Hồ (Phần 7), http://www.bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/1414-nh-ng-cu-c-tr-l-i-ph-ng-v-n-bao-chi-c-a-bac-h-ph-n-7.html
[5] Trang tin điện tử Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, tài liệu đã dẫn.
[6] Nguyễn Q. Thắng: Nam Đình - Nhà văn, nhà báo Kì Đặc, Nxb. Văn Học, Hà Nội, 2011, tr. 612.