Bảy lăm năm đã qua nhưng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh dường như vẫn còn vang vọng, biểu thị ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Mặc dù hết sức cô đọng, ngắn gọn nhưng văn kiện chứa đựng những thông điệp sâu sắc, đanh thép, những thông điệp còn nguyên giá trị và nóng hổi tính thời sự
Tối hậu thư của Pháp -giọt nước tràn ly
Khi nói tới nguyên nhân, nguồn gốc chiến tranh nói chung, cuộc kháng chiến chống Pháp nói riêng, các thế lực thù địch, các chính khách và sử gia tư sản thường đổ thừa cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nguyên nhân của cuộc chiến giữa ta và Pháp cũng vậy. Họ cho rằng vì Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến nên cuộc chiến giữa ta và Pháp mới nổ ra.
Sự thật thế nào?
Đứng trước một sự kiện lịch sử chúng ta phải xem xét toàn diện: các sự kiện trước đó tác động đến nó, các sự kiện xung quanh đó, thậm chí cả các sự kiện sau nó, để trả lời tại sao nó lại xảy ra.
Cũng như vậy, muốn hiểu rõ vì sao có sự kiện ngày 19/12/1946 Chủ tịch Hồ Chí Ming ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, chúng ta phải xem xét toàn diện, không được tách rời một cách siêu hình. Trên cơ sở như vậy, chúng ta thấy sự kiện này là hệ quả của một loạt các sự kiện trong hai năm 1945, 1946, đặc biệt là năm 1946.
Trong năm 1946, với mong ước hòa bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tìm mọi cách trì hoãn cuộc chiến xảy ra. Điều đó thể hiện qua hàng loạt các hội nghị, tiếp xúc, đàm phán... giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Pháp, từ Hiệp định Sơ bộ, Hội nghị trù bị Đà Lạt đến Hội nghị Phôngtennơblô và Tạm ước 14/9.
Tuy nhiên, với dã tâm muốn cướp nước ta một lần nữa, âm mưu tái chiếm Việt Nam và Đông Dương, nên thực dân Pháp ngày càng có những vụ vi phạm trắng trợn, cả về quân sự và chính trị. Đỉnh điểm là hai sự kiện ngày 17, 18/12/1946, khi thực dân Pháp cho quân gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh, Hà Nội. Đồng thời, chúng gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta, đưa ra những yêu sách ngang ngược:
Một là, tước vũ khí lực lượng tự vệ và kiểm soát tình hình an ninh, trật tự tại thủ đô Hà Nội.
Hai là, không chấp nhận bất kỳ một cuộc đàm phán nào với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nữa.
Đồng thời tuyên bố: sau 48h, nếu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không trả lời, chúng sẽ “hành động”.
Hành động ngang ngược của thực dân Pháp đã đặt Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam trước sự lựa chọn một trong hai khả năng: Hoặc là, khoanh tay cúi đầu quay lại làm nô lệ cho thực dân Pháp, như trước đây; hoặc là, dũng cảm cầm súng đứng lên chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do mà cả dân tộc phải hy sinh bao xương máu mới giành được.
Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn con đường thứ hai.
Đồng thời, phát huy kinh nghiệm chống ngoại xâm “tiên phát chế nhân” của cha, ông ta, không đợi đến ngày 20/12/1946 (Sau 48h, thời hạn mà Pháp ấn định ), để giành thế chủ động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến vào tối 19/12/1946.
Vì thế, ngay mở đầu Lời kêu gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ lý do chúng ta phải tiến hành kháng chiến chống Pháp: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Một khẩu đội pháo tại Pháo đài Láng trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến
(Ảnh tư liệu Viện Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam)
Tiếng kèn xung trận và niềm tin tất thắng
Ngoài việc nêu rõ nguyên nhân, lý do tất yếu buộc dân tộc Việt Nam phải đứng lên kháng chiến chống Pháp, Lời kêu gọi còn có những nội dung cơ bản sau đây:
Một là, Lời kêu gọi như tiếng kèn xung trận, hiệu triệu toàn thể dân tộc Việt Nam, bằng tất cả những gì có thể, nhất tề xông lên đánh giặc bảo vệ Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi:“Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Và “Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”.
Hai là, niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi của dân tộc trước kẻ thù. “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn nǎm!Kháng chiến thắng lợi muôn nǎm!”
Thông điệp cho hôm nay
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh 75 năm trước cho thấy những thông điệp hết sức quý báu cho Việt Nam và thế giới hôm nay.
Thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay phải luôn ghi nhớ lời Bác dạy:
Thứ nhất, luôn nuôi dưỡng khát vọng, mong ước hòa bình. Cho dù thế giới có biến động dữ dội, có những va chạm, khiêu khích...song dù còn một cơ hội nhỏ nhoi cũng phải cố gắng giữ cho được hòa bình, tránh không để chiến tranh xảy ra.
Thứ hai, độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Do đó, phải luôn ghi nhớ lời Bác dạy: khi điều kiện đấu tranh bằng biện pháp hòa bình không còn nữa, khi không còn một cơ hội nào dù nhỏ để gìn giữ hòa bình, khi độc lập, chủ quyền quốc gia đã bị xâm phạm...thì phải kiên quyết “hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến cũng để lại thông điệp cho thế giới, những thông điệp hết sức quý báu cho thế giới hôm nay, trong ứng xử với nhau và ứng xử với Việt Nam.
Thứ nhất, với Việt Nam. Thông điệp gửi cho thế giới hôm nay là khát vọng, mong ước hòa bình, hòa hiếu của dân tộc Việt Nam với tất cả các nước trên thế giới. Theo phương châm: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng thế giới.
Thứ hai, với các nước trên thế giới. Có lẽ khát vọng hòa bình cũng là khát vọng chung của tất cả các dân tộc và nhân loại tiến bộ trên thế giới. Do đó, thực hiện tốt thông điệp hòa bình cũng là giải pháp cho nhân loại tiến bộ hôm nay và mai sau.
Như vậy, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946) giải mã cho chúng ta bao điều. Điều cơ bản và quan trọng là lý giải nguyên nhân, nguồn gốc của cuộc kháng chiến. Điều đó cung cấp luận cứ, luận chứng đanh thép phủ định luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Mặt khác, cũng trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác, chúng ta thấy rõ những thông điệp hết sức quý giá, đặc biệt là khát vọng hòa bình, cho dân tộc Việt Nam và nhân loại yêu chuộng hòa bình.
Văn Minh