Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giành sự quan tâm đặc biệt đến thương binh, liệt sỹ, những người có công với cách mạng, đã cống hiến xương máu, hy sinh tính mạng để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân
Bác Hồ với thương binh, liệt sỹ
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, có biết bao nhiêu chiến sỹ cộng sản, quần chúng cách mạng, những người yêu nước, đã hy sinh nơi chiến trường ác liệt. Ca ngợi sự hy sinh to lớn ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Máu đào của các liệt sỹ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của liệt sỹ đã làm cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sỹ….”[1].
Theo Người, công tác thương binh, liệt sỹ là một hình thức xây dựng tượng đài kỷ niệm trong lòng dân chúng. Các thế hệ phải ghi nhớ công ơn, những chiến công hiển hách của những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Ngày 17/7/1947, Người viết thư gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức Ngày thương binh toàn quốc, nhấn mạnh ý nghĩa cao quý của sự hy sinh ấy: “khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh. Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”[2].
Từ những tình cảm trân trọng, tiếc thương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát quan điểm về thương binh, liệt sỹ, là những người: “quyết hy sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản họ, để bảo vệ gia đình và tài sản của đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sỹ anh dũng của ta. Trong đó, có người đã bỏ lại một phần thân thể ở trước mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là những thương binh, đó là tử sỹ”[3]. Hồ Chí Minh đã nâng tầm công tác thương binh, liệt sỹ lên như một hoạt động văn hóa, một sự kế tục, ở quy mô toàn xã hội, truyền thống nhân nghĩa “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viếng nghĩa trang liệt sĩ (Ảnh tư liệu)
Không chỉ ca ngợi thương binh, liệt sỹ, mà từ lời nói, đến việc làm, Hồ Chí Minh đều gương mẫu đi đầu trong những hành động thiết thực. Hằng năm, cứ vào dịp tháng 7, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sỹ, vừa khẳng định công lao, đóng góp của họ, vừa động viên họ: “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã từng là chiến sỹ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”, để mỗi “thương binh tàn nhưng không phế”[4].
Mỗi dịp lễ, Tết, ghi nhớ công lao của các liệt sỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đặt vòng hoa viếng tại Đài liệt sỹ Hà Nội, nhắn nhủ ân tình: “Ngày mai là năm mới.... Trong lúc cả nước vui mừng, thì mọi người đều thương tiếc các liệt sỹ đã hi sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Bác thay mặt nhân dân, Chính phủ và bộ đội kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn bất diệt của các liệt sỹ”.
Người còn ký và ban hành các sắc lệnh về chế độ lương hưu, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sỹ; thành lập sở, ty thương binh, cựu binh ở khu và tỉnh, đặt ra Bảng vàng danh dự, Bằng gia đình vẻ vang và truy trặng, phong tặng các danh hiệu anh hùng, huân, huy chương cho các liệt sỹ, thương binh.
Trước lúc đi xa, về nơi vĩnh hằng, trong Di chúc thiêng liêng của Người, căn dặn Đảng và Nhà nước, nhân dân ta về công tác thương binh, liệt sỹ: “Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào ta phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sỹ, thì mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sỹ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền cùng Hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”[5].
Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác thương binh, liệt sỹ là một loại chính sách xã hội đặc biệt, thu hút sự tham gia của mọi đối tượng, mọi ngành, mọi giới; không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là tình cảm, lương tri sống ở đời và làm người, nói lên bản chất ưu việt của chế độ xã hội, nét đẹp văn hóa ứng xử, đạo lý sống của người Việt Nam. Trong công tác thương binh, liệt sỹ, Đảng và Nhà nước phải là người khởi xướng, lãnh đạo thực hiện, thông qua hệ thống các chủ trương, đường lối và chính sách phù hợp.
Công tác thương binh, liệt sỹ là sự nghiệp của toàn dân
Trong 75 năm qua, phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” và lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm đến thương binh, thân nhân gia đình liệt sỹ. Pháp lệnh Ưu đãi Người có công với cách mạng, được ban hành lần đầu tiên năm 1994 và ngày càng được bổ sung, hoàn thiện qua 7 lần sửa đổi vào các năm 1998, 2000, 2002, 2005, 2007, 2012.
Gần đây nhất, ngày 9/12/2020, Phiên họp thứ 51, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV đã thông qua Pháp lệnh Ưu đãi Người có công với cách mạng (sửa đổi) và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2021, đáp ứng được những yêu cầu và nguyên tắc thực hiện chính sách, chế độ ưu đãi người có công với cách mạng theo tinh thần Chỉ thị số 14-CT/TW ngày 19/7/2017 của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người có công với cách mạng.
Chính quyền huyện Ea Súp tặng nhà tình nghĩa cho thương binh Cao Xuân Công tại thôn 1, xã Ea Lê,
huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk (Ảnh: Website Sở Lao động-Thương binh và Xã hội Đắk Lắk)
Chế độ ưu đãi người có công được triển khai thống nhất, sâu rộng từ Trung ương đến cơ sở với ngân sách Nhà nước, hằng năm dành 31.150 tỷ đồng thực hiện chính sách người có công.
Đối với mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi, từ năm 1994 đến nay, chế độ trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công được điều chỉnh gắn liền với việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công, theo đó chế độ trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đã qua nhiều lần điều chỉnh, từng bước khắc phục những hạn chế về mức, về nguyên tắc và phương thức điều chỉnh độc lập với chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, phù hợp với điều kiện của ngân sách nhà nước, góp phần từng bước cải thiện, nâng cao đời sống của người có công.
Mức chuẩn để xác định mức trợ cấp ưu đãi người có công năm 2012 là 1.110.000 đồng; từ năm 2019 đến nay mức chuẩn là 1.624.000 đồng (cao hơn mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng của cán bộ, công chức hiện nay). Hiện nay, có gần 1,2 triệu người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hằng tháng.
Từ năm 2016 đến năm 2021, Nhà nước đã công nhận và cấp bằng Tổ quốc ghi công đối với hơn 4.200 liệt sỹ, cấp đổi lại hơn 90.000 bằng Tổ quốc ghi công; số xã phường làm tốt công tác thương binh - liệt sỹ liên tục tăng dần từ là 96,6% đến 99% (năm 2017 đạt 96,6%; năm 2018 đạt 98,11%, năm 2019 đạt 98,37%, năm 2020 đạt 98,7%, năm 2021 đạt 99%); chỉ tiêu mức sống của người có công với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống của người dân nơi cư trú tăng dần từ 98% đến 98,6% (năm 2017 đạt 98%; năm 2018 đạt 98,42%, năm 2019 đạt 98,63%, năm 2020 đạt 99%, năm 2021 đạt 98,6%)[6].
Cả nước có tổng số 393.707 hộ người có công cần hỗ trợ về nhà ở (gồm 184.695 hộ xây mới và 209.012 hộ sửa chữa) đã được thẩm tra, cấp từ ngân sách Trung ương khoảng 10.654 tỷ đồng. Quỹ Đền ơn đáp nghĩa, cả nước vận động được hơn 4.900 tỷ đồng. Phong trào tặng sổ tiết kiệm, đạt hơn 61.600 sổ với tổng kinh phí là hơn 113,7 tỷ đồng; xây dựng mới hơn 36.400 nhà tình nghĩa, sửa chữa gần 24.000 nhà tình nghĩa, trị giá gần 2.140 tỷ đồng. Phong trào nhận phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng được tiếp tục đẩy mạnh, góp phần tích cực chăm lo đời sống của các đối tượng và gia đình có công với cách mạng, tính đến tháng 12/2021 cả nước có 3.736/139.882 Bà mẹ Việt Nam anh hùng[7] còn sống được các đơn vị nhận phụng dưỡng.
Thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với công tác thương binh, liệt sỹ, người có công với cách mạng, 75 năm qua, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta luôn phát huy truyền thống “Uống nước, nhớ nguồn”, tiến hành các hoạt động “đền ơn, đáp nghĩa”, tri ân những thế hệ cha, anh đã chiến đấu, hy sinh vì độc lập của dân tộc.
Minh Dương
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr 401.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 204.
[3]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr 579.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr 584.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 616.