Sự hy sinh của 10 nữ thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc đã đi vào lịch sử. Trước khi trở thành anh hùng, họ cũng là những người con gái biết yêu, biết ghét với tình cảm của những cô gái lứa tuổi đôi mươi trong đời thường. Hồi ức của đồng chí Nguyễn Thanh Bính (Nhà thơ Yến Thanh), nguyên cán bộ kỹ thuật Thanh niên xung phong N55- P18 (1965-1971) cho chúng ta một góc nhìn về cuộc sống đời thường của 10 nữ TNXP tại Ngã ba Đồng Lộc 55 năm trước
Cùng với tuổi trẻ “Năm xung phong” ở miền Nam, mùa Hè năm 1965, tuổi trẻ miền Bắc dấy lên phong trào “Ba sẵn sàng” mà đỉnh cao là sau khi có Chỉ thị 71, ngày 21/6/1965 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức Thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước để bổ sung cho lực lượng bảo đảm giao thông trong thời chiến và yêu cầu nhân lực phục vụ vận tải tiền phương.
Thế hệ thanh niên 4X, 5X ngày đó đâu dễ gì quên mùa Hè xanh và hàng vạn lá đơn tình nguyện xin gia nhập Thanh niên xung phong của tuổi trẻ nửa miền Bắc tới tấp bay về các cấp bộ Đoàn từ Trung ương đến địa phương. Những lá đơn được viết bằng máu sẵn sàng “Đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần đến…” và còn nắn nót sáu chữ vàng xin thề “Hoãn yêu, hoãn cưới ba năm”. Sau đó là những cuộc hành quân “nào cuốc, nào choòng, soong nồi xủng xoảng” diễn ra khắp nẻo “Đường ra mặt trận”:
“Có những ngày vui sao cả nước lên đường
Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục
Có những ngày vui sao rộn rã trên đường
Xóm dưới làng trên, con gái con trai, cơm nắm cơm đùm
Súng nhỏ súng to, chiến trường chật chội
Tiếng cười hăm hở đầy sông đầy cầu …” [1]
Riêng tại Hà Tĩnh, tỉnh huy động đợt I của nhiệm kỳ I (1965 - 1967) thành lập hai Đội Thanh niên xung phong Bắc Hà và Nam Hà (sau này đổi tên thành N23 và N25). Vừa tập trung xong là hành quân vào Đông Trường Sơn mạn Làng Ho (miền Tây Quảng Bình), đến đồi 1001 (miền Tây Quảng Trị) làm nhiệm vụ bốc xếp hàng hóa, lương thực dưới sự điều hành của Binh trạm 7, Đoàn 559 bộ đội tiền phương.
Nhà bia tưởng niệm lực lượng TNXP toàn quốc và các liệt sỹ tại Ngã ba Đồng Lộc
Sau đó không lâu, tỉnh lại huy động tiếp đợt II hai đội N53 và N55 - P18. Đội N53 thuộc quân số của 4 huyện phía Nam Hà Tĩnh (Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Hương Khê, Kỳ Anh). Đội N55 gồm quân số của 4 huyện phía Bắc Hà Tĩnh (Hương Sơn, Đức Thọ, Nghi Xuân, Can Lộc). Lẫn trong tiếng hát trùng trùng quân đi ấy, có cả tiếng hát của Võ Thị Tần, Hồ Thị Cúc, Nguyễn Thị Nhỏ, Võ Thị Hợi và Nguyễn Thị Xuân (Vĩnh Lộc) mà sau này trở thành 5 trong 10 đóa hoa bất tử, thành huyền thoại Đồng Lộc của Tiểu đội 4 - C552 - N55 - P18 Thanh niên xung phong Hà Tĩnh.
Tiểu độ 4 - C552 được thành lập từ tháng 6/1965 với số lượng biến động từng thời kỳ từ 14 đến 16 chị em, tuổi đời từ 17 đến 24. Trước khi Võ Thị Tần được đề bạt A trưởng, Hồ Thị Cúc A phó thì A trưởng A4 đã qua tay nhiều đồng đội của Tần, Cúc đảm trách. Chỉ có điều, dù ai đứng đầu thì A4 vẫn luôn luôn là một tập thể đoàn kết, thương yêu nhau, luôn luôn giữ vững truyền thống con chim đầu đàn của đơn vị. Nào Hạ Vàng, Cổ Ngựa, Thượng Gia (QL1) đến Địa Lợi, Khe ác, Khe Mơ (QL15A), … Quên sao được những ngày đêm mưa rừng, bão đạn. Tần, Cúc, Nhỏ, Xuân, Hợi và đồng đội đã bao lần "Đi dưới trời khuya sao đêm lấp lánh, tiếng hát em lay động cây rừng. Phải chăng em cô gái mở đường, không thấy mặt người mà chỉ nghe tiếng hát".
Những năm tháng gian khổ mà vui. Rồi vinh dự lớn cũng đến, ngày 03/2/1967, cả Tần và Cúc đều được đứng dưới Đảng kỳ, nắm tay thề tuyệt đối trung thành với tổ chức, với nhân dân và nguyện suốt đời hy sinh cống hiến vì lý tưởng cao cả. Tháng 4/1967, Tần được đề bạt A trưởng A4 và Cúc làm A phó. Đơn vị được điều về bảo đảm giao thông đoạn eo thắt cổ chai của QL15A từ cống 19 vào Tùng Cốc. Đây cũng là thời điểm "tống cựu nghinh tân" giữa đội viên hoàn thành nhiệm kỳ I và đón tiếp đội viên nhiệm kỳ II bắt đầu. Biết bao đêm pháo sáng xoe xóe trên đầu, máy bay gầm rít long óc, nào bom phá, bom nổ chậm, hẹn giờ, bom bi, từ trường ken dày đường sá, cầu ngầm nhưng không át nổi tiếng hò, tiếng hát của A4 với cánh lái xe, bộ đội hoặc các Tiểu đội nam cùng đơn vị. Đêm đêm, mỗi tiểu đội làm cách nhau tối thiểu 30m để đảm bảo an toàn, nhá nhem tối từ trong khoảng lặng hiếm hoi tiếng máy bay, tiếng pháo, một giọng hò nam cất lên:
(Ơ hò….) ra đi mẹ đã dặn rồi
Làm sao lấy được một người như em.
Cả Tiểu đội 4 ồ lên, rồi "con chim sơn ca" Trần Thị Hường (Tân binh nhiệm kỳ II) cất giọng véo von đáp lại:
(Ơ hò….) thương anh răng nỏ muốn thương
Nước thì muốn chảy nhưng mương chưa đào
Anh về lo liệu làm sao
Khơi mương cho nước lọt vào lòng mương
Phái nữ “Dô hò” phụ họa. Và cứ thế tiếng hò đối đáp, tiếng cười của hàng nghìn trai gái rộn vang núi đồi Đồng Lộc.
Võ Thị Tần, Võ Thị Hợi cũng như một số chị em cùng tiểu đội, trước lúc gia nhập Thanh niên xung phong đã là cán bộ Đoàn, kiện tướng bèo hoa dâu, xã viên hợp tác xã nông nghiệp hoặc Trần Thị Hường con liệt sỹ Trần Đông đã là cô dân quân trực chiến từ trận Rú Nài, sau đó thoát ly làm công nhân trại màu một dạo. Tần vui vẻ, yêu đời, nhanh nhẹn tháo vát, đa cảm, tác phong thẳng thắn. Ông Võ Cung lấy bà Hà Thị Út 8 lần sinh, nhưng 6 người không nuôi được từ nhỏ, còn lại mình Tần và em trai Võ Xuân Tửu. Mười tám tuổi, Tần đã là lao động chính của gia đình. Xuất thân trong gia đình như thế, nên Tần hiểu rất rõ hoàn cảnh từng chị em, đặc biệt là Nhỏ và Cúc. Tần có một mối tình nảy nở trong lao động thật đẹp đẽ. Cha mẹ Tần đã nhận cau trầu ăn hỏi của nhà anh Nguyễn Đình Hồng cùng xóm. Tục quê như rứa là Tần đã có chồng. Rồi anh Hồng đi bộ đội vào chiến trường B được gần một năm thì Tần cũng gia nhập Thanh niên xung phong. Lọn tóc thề và tấm ảnh Tần tặng anh ngày lên đường coi như lời hứa đinh đóng cột, hẹn 3 năm sau về làm lễ cưới.
Văn bia tưởng niệm liệt sĩ tại Ngã ba Đồng Lộc
Tần quý Cúc như ruột thịt, Tần cũng thương Nguyễn Thị Nhỏ vô cùng. Cha mẹ Nhỏ mất khi chị Miên mới 7 tuổi, Nhỏ lên 3, biết nói chưa biết đi. Ông chú đưa hai chị em về nuôi, nhưng nhà chú quá nghèo không nuôi nổi, một thời gian sau chú dựng cho hai chị em túp lều rìa làng và tự nuôi nhau. Hằng ngày, trước khi đi mót khoai, mót lúa, mò cua, bắt tép, Miên để bên cạnh người Nhỏ củ khoai, củ sắn và mo nước. Đói, khát, Nhỏ tự mò lấy mà ăn mà uống. Vì thiếu chất canxi nên 3 tuổi Nhỏ chưa biết đi, nghe họ hàng bày cho, hễ thấy nhà ai làm thịt chó Miên lại đến xin bốn cái chân về ninh lên cho Nhỏ ăn. Nhỏ ăn sáu tháng thì đi lại được. Và cứ thế hai chị em nuôi nhau lớn lên, chị lấy chồng nhưng không về nhà chồng mà ở lại nuôi em khôn lớn. Rồi anh Hùng chồng chị đi bộ đội hi sinh trước khi chị Miên sinh cháu. Nhỏ gia nhập Thanh niên xung phong, còn lại mẹ con chị Miên với đường tàu bỏ hoang Đức Lạng.
Hồ Thị Cúc, bạn bè trong Tiểu đội đặt cho biệt danh “Cúc mục” vì Cúc nhỏ con, tóc loe hoe xoăn, mắt hay nhìn xuống, mặt buồn, Cúc sống nội tâm. Cúc sinh năm 1944, lên một tuổi cha và bà nội chết đói năm 1945, ông nội đưa hai mẹ con về nuôi. Lên ba tuổi, bà Trinh mẹ của Cúc tái giá, Cúc được ông nội và O Loan nuôi. Rồi ông nội mất, O Loan xây dựng gia đình, chú Dũng đi bộ đội phục viên về lấy vợ và nuôi Cúc. Cúc bé choắt nhưng ham làm, chịu khó từ chăn trâu cắt cỏ đến việc nhà. Lên 8 tuổi, một hôm Cúc đang lúi húi quét nhà, mợ bê nồi cám lợn đi qua, vấp ngã đổ lên người Cúc. Cúc bỏng nửa người tưởng chết. O Loan dùng lá thuốc chữa chạy cho Cúc hàng năm mới khỏi, nhưng để lại vết sẹo lớn từ vai xuống tận mông. Vì thế, tính tình Cúc trầm buồn, ít nói từ đó. Trong Tiểu đội, khi ra sông suối tắm tập thể bao giờ Cúc cũng xung phong ngồi canh máy bay, canh người rồi tắm sau (!). Cúc chịu khó, chăm chỉ, tỉ mẫn, ngoài A phó, Cúc còn thêm chức vụ vệ sinh viên lo thuốc men, bông băng, thuốc đỏ cho Tiểu đội. Cũng như Tần, Cúc được cả đơn vị thương yêu, cả Tiểu đội tin tưởng, nể phục.
Cứ thế, cả 16 chị em, Tần hiểu hết hoàn cảnh riêng mỗi người. Nên hễ có hiện tượng O mô dao động tư tưởng là Tần lại rỉ tai “Tối ni về cho tau ngủ chung với mi nhé”. Sau đêm ngủ chung ấy, không biết “thủ trưởng” làm tư tưởng kiểu gì mà từ đó O ta hoạt bát, phấn chấn hẳn lên.
Không chỉ Tiểu đội 4 - C552 - N55 - P18 mà những thế hệ Thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước nói chung, họ đặt niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ tuyệt đối. Họ sống vì Tổ quốc, làm vì nhân dân. Họ khát vọng sống, nhưng sự sống mong manh như sợi chỉ. Họ khát vọng yêu, nhưng nào ai đã được yêu. Coi đơn vị là tổ ấm gia đình, vui vẻ, yêu đời, lạc quan cách mạng. Hằng ngày, khi có tiếng còi Đại đội trưởng cất lên là hàng trăm cô Tấm “lột vỏ thị” để chui ra thành công binh, san lấp hố bom, lát đá chống lầy, mở đường tránh, hộ tống xe… tay làm miệng hát. Tan tầm lại “chui vào vỏ thị” trong những lán tạm học bổ túc văn hóa, tập văn nghệ, viết thư từ hoặc vùi đầu vào thêu đôi chim quặp mỏ nhau dưới có dòng chữ “Hẹn anh ngày ấy …”, “Chờ ngày thống nhất…” xanh đỏ tím vàng trên những vỏ gối hoặc khăn mùi soa trắng tinh mà biết đâu chỉ thêu, khung thêu, vải trắng kia lại do một anh chàng nào đó trong đơn vị bí mật mới tặng. Thay vì một nụ hôn nồng nàn cảm tạ, các nàng lại mở chiếc chìa khóa đeo trên cặp tóc, mở cái rương gỗ be bé dúi cho một gói thuốc lá Trường Sơn, Tam Đảo, Điện Biên, loại thuốc lá phân phối hiếm hoi thời đó. Trai gái Thanh niên xung phong thời đó sợ yêu hơn sợ bom đạn. Hai trái tim trái dấu đập loạn xạ muốn nổ tung ra trong lồng ngực, nhưng ngoài miệng lại ngụy trang bằng O...O...Cụ...Cụ... đồng hương, để đánh lạc hướng Ban chỉ huy đơn vị.
[1] Trích lời bài hát: "Đường ra mặt trận", nhạc Hoàng Hiệp, lời thơ Chính Hữu.