Ngày 1 tháng 10 năm 2009, Ca trù được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại. Sau hơn 10 năm được ghi danh, Việt Nam vẫn đang nỗ lực vực dậy loại hình nghệ thuật này. Ca trù thực tế đã có bước khởi sắc nhất định cả về số lượng, chất lượng và đang không ngừng tìm tòi con đường thu hút thêm khán giả nhằm lan tỏa hơn nữa giá trị tới cộng đồng.
Âm nhạc là phương thức kỳ diệu nuôi dưỡng đời sống tinh thần của con người, còn Ca trù giống như chất liệu sắc nét nhất để lưu dấu tâm hồn bao thế hệ người Việt Nam. Từ thể loại thanh nhạc truyền thống độc đáo và thanh lịch, Ca trù ngày nay đã trở thành di sản đáng tự hào của Việt Nam và thế giới.
Ca trù, còn gọi nôm na là hát cô đầu / hát nhà trò là loại hình diễn xướng bằng âm giai nhạc thính phòng rất thịnh hành tại khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam. Ca trù thịnh hành từ thế kỷ XV, từng là loại ca trong cung đình và được giới quý tộc và trí thức yêu thích. Ca trù là một sự phối hợp nhuần nhuyễn và đỉnh cao giữa thi ca và âm nhạc.
Xuất hiện sơ khai vào đầu thế kỷ XI, bắt đầu thịnh hành trong nước từ thế kỷ XV nhưng đến nửa cuối thế kỷ XX, Ca trù mới được thế giới biết đến lần đầu tiên qua tiếng hát của nghệ nhân Quách Thị Hồ (1909 – 2001). Ca trù thu hút sự chú ý và dần dần được nhiều nhạc sĩ, nghệ sĩ nước ngoài theo học, tìm hiểu, nghiên cứu và giới thiệu tại nhiều trường đại học nổi tiếng trên thế giới. Ca trù có quá trình phát triển gắn liền với những thăng trầm biến cố của lịch sử, cho tới nay đã đạt đến trình độ thẩm mỹ cao, có sức ảnh hưởng quan trọng trong nền nghệ thuật Việt Nam và thế giới. Sự hòa trộn giữa tính dân gian với tính hàn lâm trong nội dung và giai điệu của Ca trù đã tạo nên nét độc đáo riêng có. Chính vì vậy, Ca trù khá kén người nghe và việc quảng bá, đạo tạo nghệ nhân kế tục cũng gặp nhiều khó khăn. Kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại này dường như chưa thể thoát khỏi tình trạng cần được bảo vệ khẩn cấp. Ngày 23 tháng 2 năm 2020, nhằm ngày giỗ tổ nghiệp Ca trù, Google lần đầu tiên tôn vinh loại hình nghệ thuật truyền thống này bằng biểu tượng đặc biệt thay thế tạm thời trên trang chủ, như một sự nhắc nhở đối với thế hệ trẻ ngày nay cần phải hành động mạnh mẽ hơn để bảo tồn di sản này.
Biểu tượng đặc biệt về Ca trù được thay thế tạm thời cho biểu tượng Google trên trang chủ Google.com.vn trong 1 ngày 23/2/2020 (Ảnh: Google)
Về đặc điểm nghệ thuật, Ca trù có 5 không gian trình diễn chính: hát cửa đình (hát thờ), hát cửa quyền (hát cung đình hay hát chúc hỗ), hát tại gia (hát nhà tơ), hát thi và hát ca quán (hát chơi). Mỗi không gian có một lối hát và cách thức trình diễn riêng. Ca trù xưa được tổ chức chặt chẽ thành phường, giáo phường, do trùm phường và quản giáp cai quản. Ca trù có qui định về sự truyền nghề, cách học đàn, học hát, việc cho phép đào nương vào nghề (lễ mở xiêm áo), việc chọn đào nương đi hát thi… Tham gia biểu diễn Ca trù có ít nhất 3 người: một nữ ca sĩ gọi là “đào nương” hay “ca nương” hát theo lối nói và gõ phách lấy nhịp (phách là một nhạc cụ làm bằng gỗ hoặc tre, được gõ bằng 2 que); một nam nhạc công gọi là “kép” đệm đàn đáy cho người hát (đàn đáy là một loại đàn cổ, dài, có 3 sợi dây tơ và 10 phím đàn); một người điểm trống chầu gọi là “quan viên”. Trong đó, ca nương là một trong 3 thành phần quan trọng. Để trở thành một người ca nương được mọi người công nhận, người nghệ sỹ phải trải qua quá trình học hỏi, luyện tập, trau dồi và vượt qua rất nhiều thử thách.
Ca trù đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài, được biểu diễn trong không gian văn hóa đa dạng gắn liền với nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Nổi bật lên trong nghệ thuật biểu diễn chính là ý thức về bản sắc và sự tính sáng tạo trong kế thừa nghệ thuật, được các tổ chức giáo phường chuyển giao giữa các thế hệ. Chính mối liên hệ mật thiết cũng tạo nên nét đặc trưng của hoạt động biểu diễn Ca trù, tạo nên dấu ấn và quy mô nghệ thuật có vị thế riêng, tô thắm đời sống văn hóa Việt Nam.
Không gian nghệ thuật riêng, nhạc cụ riêng và thể thơ riêng làm nên nét đặc sắc của Ca trù. Các nghệ nhân dân gian chia Ca trù thành rất nhiều thể thức và giai điệu phong phú khác nhau. Hát đòi hỏi kỹ thuật phải được luyện tập tinh tế, công phu. Thể hát nói với hình thức thơ chữ Nôm đã ra đời từ Ca trù, làm phong phú và tươi sáng dòng văn học Nôm, phản ánh đời sống tinh thần hết sức sinh động, đa chiều, tinh tế của người Việt qua hàng thế kỷ. Về mặt âm thanh, nhạc cụ trình diễn trong Ca trù gắn liền với đàn đáy, phách và trống, tạo nên đặc trưng nổi bật với ấn tượng vừa mộc mạc vừa ma mị của mỗi tác phẩm nghệ thuật. Ba người ngồi trong một không gian tương đối nhỏ, với giọng hát, tiếng đàn, nhịp trống, tỏa ra ý vị tao nhã mà mê hoặc lòng người, đưa người nghe vào miền suy tưởng sâu xa đắm chìm trong cảm xúc.
Bên cạnh việc gìn giữ những giá trị nghệ thuật cốt lõi, Ca trù ngày nay có những biến đổi và phát triển nhất định nhằm thích ứng với nhịp sống hiện đại, bằng cách lan tỏa và hòa trộn chất liệu riêng vào trong những thể nhạc khác hoặc những loại hình nghệ thuật khác như sân khấu, điện ảnh. Ngoài việc duy trì và trau chuốt những điệu ca cổ, Ca trù còn làm mới nội dung như trong các bài ca ngợi quê hương, đất nước với ca từ hiện đại hơn. Những nét đặc trưng của Ca trù cũng được nhiều nhạc sĩ như Phó Đức Phương, Nguyễn Cường, Phú Quang đưa vào các sáng tác của mình tạo ra âm hưởng đương đại rất độc đáo.
Mặc dù tạo ra những ảnh hưởng sâu rộng tới nền nghệ thuật âm nhạc nói chung, nhưng bản thân Ca trù vẫn cần được bảo vệ hơn nữa để di sản này phát huy vai trò tích cực về lâu dài. Sự hiện diện của Ca trù gắn liền với việc đầu tư và phát triển loại hình nghệ thuật này tại các câu lạc bộ và mở rộng đa dạng các hình thức biểu diễn. Ca trù cho đến ngày nay, đang hồi sinh và vẫn đầy sức lôi cuốn, việc làm thế nào để khẳng định vị thế của di sản này trong xã hội hiện đại, phụ thuộc rất nhiều vào ý thức và phương thức hành động của những thế hệ sau này, để Ca trù không chỉ là nghệ thuật thanh âm truyền đời, mà còn là tiếng lòng dân tộc kết nối niềm tự hào đến mai sau.
Minh Vũ