Tháng 10/1954, sau khi chủ trương chuyển hướng đấu tranh cách mạng tại miền Nam, Đảng đã giải tán Trung ương Cục miền Nam (thành lập tháng 6/1951), tái lập Xứ ủy Nam Bộ. Bảy năm sau, trước yêu cầu lãnh đạo cách mạng miền Nam trong tình hình mới, tháng 10/1961, Trung ương Cục miền Nam được tái lập và hoạt động đến năm 1975
Tình hình mới
Sau thắng lợi của phong trào Đồng khởi năm 1960, cách mạng miền Nam đã chuyển sang một bước ngoặt phát triển mới, làm đảo ngược cục diện chiến trường, đẩy Mỹ-Diệm vào tình thế khủng hoảng bị động. Để cứu nguy cho hình thức thống trị bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới, Hoa Kỳ quyết định tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt” chống lại nhân dân miền Nam.
“Chiến tranh đặc biệt” là một trong ba loại chiến tranh chiến lược quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt”. Đặc điểm chủ yếu của chiến lược này là sử dụng chính quyền và quân đội bản xứ làm công cụ tiến hành chiến tranh với vũ khí, phương tiện chiến tranh, tài chính của Mỹ và do cố vấn Mỹ chỉ huy.
Chiến lược “chiến tranh đặc biệt”là loại hình chiến tranh phối hợp toàn diện các biện pháp quân sự, chính trị, kinh tế, tâm lý. Kenedy chọn Việt Nam làm nơi thí điểm chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, từ đây rút kinh nghiệm đàn áp các cuộc “nổi dậy” của các khu vực khác trên thế giới.
Chủ trương tái lập Trung ương Cục miền Nam
Đứng trước tình hình mới, với sự chuyển biến của cách mạng miền Nam, trước yêu cầu nhiệm vụ cách mạng ngày càng cao, Trung ương Đảng chủ trương cần phải tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Trung ương đối với cách mạng miền Nam. Vì vậy, khi đề cập đến tổ chức Trung ương Đảng, điều 24 Điều lệ Đảng, được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) ghi rõ: “Ban Chấp hành Trung ương Đảng có thể cử ra một số uỷ viên trung ương thành lập Trung ương Cục phụ trách chỉ đạo công tác Đảng ở những đảng bộ đặc biệt trọng yếu. Trung ương Cục đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng”([1]).
Từ trái sang: Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Xô, Phạm Thái Bường, Võ Văn Kiệt tại căn cứ Trung ương Cục miền Nam (Ảnh tư liệu)
Thực hiện Điều lệ Đảng, tháng 1/1961, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III), Đảng quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng ở Nam Bộ và Liên khu V.
Ngày 14/3/1961, Trung ương Đảng gửi “Điện mật” số 28/ĐM cho Xứ uỷ Nam Bộ và Liên khu uỷ V ([2]) .
Nội dung bức điện nêu rõ lí do thành lập Trung ương Cục: “Căn cứ vào Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III quy định rõ hai nhiệm vụ và hai chiến lược cách mạng khác nhau cho miền Bắc và miền Nam trong giai đoạn hiện nay; Căn cứ vào Điều 24 Điều lệ mới của Đảng, quy định BCH Trung ương được thành lập Trung ương Cục phụ trách chỉ đạo công tác Đảng ở những Đảng bộ đặc biệt trọng yếu; Căn cứ vào tình hình giao thông liên lạc hiện nay giữa hai miền còn khó khăn, Hội nghị lần thứ ba (1/1961) Ban Chấp hành Trung ương quyết định Về tổ chức và nhiệm vụ của Trung ương Cục miền Nam”:
1. Trung ương Cục miền Nam là một bộ phận của Ban Chấp hành Trung ương, gồm một số đồng chí uỷ viên Trung ương Đảng được Ban Chấp hành Trung ương cử ra và uỷ nhiệm chỉ đạo toàn bộ công tác Đảng ở miền Nam.
2. Trung ương Cục miền Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, thường xuyên do Bộ Chính trị thay mặt chỉ đạo.
3. Trung ương Cục miền Nam có nhiệm vụ:
- Căn cứ Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, những chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị về cách mạng miền Nam mà đề ra chủ trương, chính sách, phương châm, kế hoạch công tác và chỉ đạo thực hiện cụ thể cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam. Đối với những vấn đề quan trọng có quan hệ đến toàn quốc hoặc đối với nhiệm vụ chiến lược chung toàn miền Nam thì phải xin chỉ thị Trung ương và Bộ Chính trị. Nhưng trong những trường hợp đặc biệt cấp bách không kịp xin chỉ thị của Trung ương, Trung ương Cục có quyền đề ra những chủ trương, chính sách lớn để đối phó kịp thời với tình hình; nhưng một mặt phải báo cáo ngay với Trung ương và Bộ Chính trị.
- Chấp hành Cương lĩnh và những quy định cụ thể về Điều lệ Đảng ở miền Nam. Căn cứ vào những quy định cụ thể và Điều lệ Đảng đối với Đảng bộ miền Nam mà tổ chức ra Đảng bộ các cấp ở miền Nam và lãnh đạo các đảng bộ đó hoạt động.
- Thành lập các Đảng đoàn trong các tổ chức quần chúng để giúp cấp uỷ đảng lãnh đạo trực tiếp các tổ chức đó.
- Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương quản lý và phân phối cán bộ Đảng ở miền Nam.
- Quy định Đảng phí, quản lý và phân phối tài chính của Đảng ở miền Nam .
- Từng thời kỳ, báo cáo mọi mặt tình hình công tác của Đảng bộ miền Nam lên Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị.
4. Trung ương Cục miền Nam có một Bí thư, một hoặc hai Phó bí thư, do Ban Chấp hành Trung ương chỉ định và Ban Thường vụ, do Hội nghị Trung ương Cục cử. Trung ương Cục cần tổ chức các cơ quan giúp việc cho phù hợp tình hình và yêu cầu công tác của mình.
5. Trung ương Cục thường lệ họp sáu tháng một lần. Tuỳ tình hình cụ thể, Trung ương Cục có thể họp sớm hơn hay muộn hơn.
Tái hiện nhà làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt tại Khu di tích Trung ương Cục miền Nam
Từng bước hoàn thiện nhân sự Trung ương Cục
Ngày 27/3/1961, Ban Chấp hành Trung ương Đảng điện gửi Xứ uỷ Nam Bộ về quyết định nhân sự của Trung ương Cục miền Nam. Trung ương Đảng chỉ định các đồng chí sau tham gia Trung ương Cục([3]):
1. Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc), Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Trung ương Cục.
2. Phan Văn Đáng - Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư
3. Võ Chí Công (Võ Toàn) - Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư
4. Phạm Văn Xô - Uỷ viên
5. Phạm Thái Bường - Uỷ viên
6. Võ Văn Kiệt - Uỷ viên
7. Trần Lương - Uỷ viên
8. Nguyễn Đôn - Uỷ viên ([4]).
Để tiến tới tổ chức Hội nghị lần thứ nhất của Trung ương Cục miền Nam, ngày 11/7/1961, Xứ uỷ Nam Bộ gửi điện số 104/NB, xin ý kiến Ban Bí thư về nội dung của Hội nghị. Ngày 10/8/1961, Ban Bí thư điện trả lời Xứ uỷ Nam Bộ (Điện số 168) nêu rõ những nội dung Hội nghị lần thứ nhất Trung ương Cục miền Nam cần xác định.
Chính thức tái lập Trung ương Cục miền Nam
Tháng 10/1961, căn cứ nhiệm vụ, quyền hạn Ban Chấp hành Trung ương Đảng giao, Hội nghị lần thứ nhất Trung ương Cục miền Nam (mở rộng) được tiến hành tại một địa điểm thuộc chiến khu Đ (nay thuộc xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Văn Linh. Hội nghị quán triệt Chỉ thị ngày 24/1/1961 của Bộ Chính trị và đánh giá một cách toàn diện hoạt động đấu tranh cách mạng trong những năm đã qua, xác định phương hướng tiến lên của cách mạng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực, ngoài ra không còn con đường nào khác. Đó là con đường phát động quần chúng nổi dậy lật đổ ách thống trị của Mỹ-Diệm; giành chính quyền về tay nhân dân bằng con đường lấy chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân để đánh bại chiến tranh xâm lược của Mỹ, đánh đổ ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Phân tích tình hình Mỹ mở rộng can thiệp vũ trang sâu vào miền Nam Việt Nam, Hội nghị nhấn mạnh: lực lượng chính trị của quần chúng không chỉ là cơ sở của lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang mà còn là một lực lượng quan trọng cùng lực lượng vũ trang chống địch; đấu tranh chính trị của quần chúng không chỉ có tính chất phòng ngừa, thế thủ mà còn là một ngón đòn lợi hại, một vũ khí tiến công địch. Do đó, phải đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị của quần chúng song song với đấu tranh vũ trang, đường lối đấu tranh của ta lúc này vẫn là vừa đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, vừa đẩy mạnh đấu tranh chính trị, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đẩy lui địch từng bước, tạo điều kiện đánh bại địch hoàn toàn.
Hội nghị chỉ rõ 10 nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Nam:
1. Đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng rộng trên khắp 3 vùng.
2. Đẩy mạnh đấu tranh vũ trang phối hợp với đấu tranh chính trị, phá tan kế hoạch Staley-Taylor, chuẩn bị đối phó với những âm mưu mới của địch.
3. Tăng cường vận động binh lính và sỹ quan trong quân đội Sài Gòn, đây là công tác có tính chiến lược cần quán triệt trong quá trình cách mạng.
4. Đẩy mạnh công tác Mặt trận và dân vận, tập hợp mọi lực lượng, mọi khả năng chống chính quyền Ngô Đình Diệm.
5. Tiếp tục xây dựng và mở rộng căn cứ địa.
6. Xây dựng và củng cố chính quyền vùng giải phóng.
7. Đẩy mạnh công tác kinh tế, tài chính nhằm cải thiện đời sống của nhân dân, đáp ứng nhu cầu to lớn của cách mạng.
8. Xây dựng và mở rộng cơ sở cách mạng ở thành thị.
9. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục.
10. Củng cố, xây dựng, phát triển Đảng và Đoàn.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất Trung ương Cục đã cụ thể hoá sinh động, sáng tạo đường lối cách mạng miền Nam do Đại hội đại biểu lần thứ III của Đảng đã vạch ra, đồng thời đánh dấu quá trình hoàn thiện về mặt tổ chức, nhân sự Trung ương Cục miền Nam, đáp ứng kịp thời những đòi hỏi cấp bách về trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng.
Lê Minh
[1] . Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.21, tr .797.
[2] . Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.22, tr. 263-265.
[3] . Xem Điện ngày 27/3/1961 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định nhân sự của Trung ương Cục miền Nam: Lịch sử biên niên Xứ uỷ Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975),Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 246.
[4] . Theo Lịch sử Văn phòng Trung ương Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 132-133: Uỷ viên Trung ương Cục miền Nam, ngoài các đồng chí trên, còn có các đồng chí: Trương Chí Cương, Trần Văn Quang.