Ngày 27/01/1973, Hiệp định Paris "về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam" được ký kết. Đây là một thắng lợi lịch sử trong đấu tranh ngoại giao của Việt Nam, trong đó có ngoại giao nhân dân. Thắng lợi của hội nghị này là thắng lợi của sức mạnh tổng hợp của dân tộc cả trên chiến trường, cả trên bàn đàm phán và cả từ sức mạnh và sự giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế, của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là tại Pháp
Cuộc đấu trí ngoại giao lâu dài và căng thẳng
Ít có cuộc đàm phán nào diễn ra với khoảng thời gian dài, với nhiều phiên họp như Hội nghị Paris về Việt Nam. Thời gian đàm phán kéo dài từ ngày 13/5/1968 đến ngày 27/01/1973. Cuộc đàm phán kéo dài 4 năm 8 tháng với 202 phiên họp chính thức và 52 phiên họp kín. Ngày 13/5/1968, Hội nghị Paris giữa 2 bên khai mạc. Do lập trường cương quyết của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mỹ buộc phải chấp nhận Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và từ tháng 6-1969 là Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một bên đàm phán.
Ngay từ khi bắt đầu đàm phán, những người lãnh đạo của chế độ Sài Gòn đã chống phá quyết liệt hội nghị này. Sau này, để mau chóng rút khỏi vũng lầy trong cuộc chiến tranh Việt Nam, nước Mỹ đã sử dụng các biện pháp cứng rắn buộc chế độ Sài Gòn phải chấp nhận ký kết các điều khoản của hiệp định.
Ngày 15/01/1973, Nguyễn Văn Thiệu gửi công điện hỏa tốc tới tư lệnh các quân đoàn, quân khu của quân đội Sài Gòn, yêu cầu phải có các biện pháp đối phó[1]. Ngày 16/01/1973, Đại tướng Haig trao cho Nguyễn Văn Thiệu bức thư của Nixon, mà Kissinger gọi là "bốc lửa", trong đó có đoạn: "Vì vậy, chúng tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt Hiệp định ngày 23/01/1973 tại Paris. Nếu cần thiết, chúng tôi sẽ làm như thế một mình. Trong trường hợp đó, tôi phải giải thích công khai rằng Chính phủ của ông cản trở hoà bình. Kết quả là sự chấm dứt không tránh khỏi và lập tức của viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự sắp xếp lại Chính quyền của ông cũng chẳng thay đổi được tình hình[2]".
Trước sức ép của Mỹ, Việt Nam Cộng hòa cuối cùng phải chấp nhận ký kết hiệp định. Đây là cuộc đấu trí trên bàn ngoại giao giữa một nền ngoại giao Việt Nam non trẻ với nền ngoại giao và những nhà thương thuyết được xem là đầu sỏ của một siêu cường thế giới.
Thắng lợi của việc ký kết hiệp định Paris là thắng lợi của sức mạnh tổng hợp của dân tộc bao gồm thắng lợi về mặt quân sự, thắng lợi từ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế và thắng lợi từ hoạt động ngoại giao nhân dân.
Thắng lợi về quân sự quyết định thắng lợi về ngoại giao
Từ cuối năm1964, đầu năm 1965, “Chiến tranh đặc biệt” đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn, Hoa Kỳ buộc phải gia tăng các hoạt động quân sự chống phá Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” lấy cớ đánh phá miền Bắc Việt Nam và đưa quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam.
Tháng 12/1965, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương chỉ rõ “đánh đến một lúc nào đó sẽ vừa đánh vừa đàm” nhưng nhận định “tình hình chưa chín muồi cho một giải pháp”.
Tới tháng 12/1967, quân số lính Mỹ đạt 497.498 quân, kết hợp với 60.276 lính quân đội các nước đồng minh của Mỹ (không tính lính Việt Nam Cộng hòa), nâng tổng quân số nước ngoài trên chiến trường Việt Nam đạt 557.774 lính và số lượng lính Việt Nam Cộng hòa đạt 634.475 lính, tăng 200.000 lính so với năm 1966. Tới ngày 31/03/1968, tổng quân số liên quân Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa đạt 1.375.747 quân.
Cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972 đánh bại thêm một bước ý chí xâm lược của Mỹ (Ảnh tư liệu)
Với sức mạnh quân sự vượt trội, riêng trong 3 tháng đầu năm 1967, liên quân Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa đã tổ chức 884 cuộc hành quân từ cấp tiểu đoàn trở lên. Cũng trong ba tháng đó, Không quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tiến hành 151.044 phi xuất (trong đó phi xuất hành quân là 30.231 cuộc) và 37.851 cuộc hải xuất oanh tạc và do thám miền Bắc.
Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ và Việt Nam Cộng hòa phải bắt đầu quá trình xuống thang chiến tranh, phải chuyển hướng chiến lược “phi Mỹ hoá chiến tranh” rồi “Việt Nam hoá chiến tranh”, bắt đầu rút dần quân Mỹ về nước, chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Paris.
Trong giai đoạn đầu đàm phán giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phía Hoa Kỳ yêu cầu có sự tham gia của phái đoàn Sài Gòn; Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không vi phạm khu phi quân sự, không dính líu quân sự ở miền Nam Việt Nam.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phản đối những đòi hỏi đó và đòi Hoa Kỳ chấm dứt không điều kiện việc ném bom; yêu cầu chấp nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia hội đàm.
Để thống nhất các quan điểm khác nhau này, hai bên phải mất 6 tháng với 28 phiên họp chính thức. Nhân tố đưa đến sự thống nhất vẫn chủ yếu do tình hình chiến trường.
Hiệp định Paris được ký kết nhưng đó không phải là một thắng lợi dễ dàng bởi để đi tới hội nghị này, quân và dân miền Nam đã trải qua những năm tháng chiến đấu và hy sinh to lớn. Đặc biệt, sau thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đem hàng trăm nghìn quân tinh nhuệ vào miền Nam trực tiếp tham chiến, quân Mỹ đã thực hiện nhiều chiến dịch quân sự gây tổn thất to lớn cho bộ đội ta ở miền Nam.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy kéo dài trong năm 1968 đã buộc Hoa Kỳ lùi từng bước, từ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở vào đến chỗ phải tuyên bố ngừng hoàn toàn ném bom miền Bắc, từ chỗ không chấp nhận phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia hội nghị đến chỗ buộc phải chấp nhận Mặt trận là một thành viên chính thức của hòa đàm Paris.
Tiếp đó, cuộc tiến công chiến lược Xuân -Hè năm 1972 bồi một đòn chí tử vào quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, đẩy nhanh quá trình Hòa Kỳ tìm kiếm giải pháp ngoại giao, rút quân khỏi Việt Nam.
Người Mỹ xuống đường phản đối cuộc chiến tranh của Chính phủ Mỹ tại Việt Nam (Ảnh tư liệu)
Thắng lợi của sự ủng hộ của bạn bè quốc tế
Trên trường quốc tế, uy tín của Mỹ cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Làn sóng phản đối chiến tranh, đòi Mỹ ngồi vào bàn đàm phán tăng mạnh. Đầu tháng 3/1968, Tổng thư ký Liên Hiệp quốc U.Thant kêu gọi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc và coi đây là điều kiện để tổ chức đàm phán.
Ngày 14/5/1968, trong bài phát biểu tại Trường Đại học Alberta (Canada) ngài U. Thant - Tổng thư ký Liên hiệp quốc đã “tỏ rõ lập trường ủng hộ quan điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ thực hiện một cuộc ngưng oanh tạc toàn diện vô điều kiện miền Bắc[3]”.
Lãnh đạo nhiều nước trên thế giới bằng cách mày hay cách khác bày tỏ sự ủng hộ đối với Việt Nam từ Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Tư, Anlgéri, Tanzania…Trong Hồi ký của mình, bà Nguyễn Thị Bình cho biết khi bà tới thăm Ấn Độ theo lời mời của Thủ tướng Ấn Độ, Lãnh sự của chính quyền Sài Gòn ở Ấn Độ đã phản đối. Chính phủ Ấn Độ trả lời chính thức “Mời ai là quyền của chúng tôi[4]”.
Đảng Đảng Cộng sản Pháp (PCF), một lực lượng chính trị rất mạnh ở Pháp lúc bấy giờ, ngoài sự giúp đỡ vật chất rất to lớn cho hai đoàn Việt Nam tham gia đàm phán, còn tích cực trong việc tập hợp các lực lượng chính trị và nhân dân Pháp ủng hộ các cuộc kháng chiến của ta và phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ; làm cầu nối giữa Việt Nam và Pháp vì hai nước lúc bấy giờ chưa có quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ.
Thắng lợi của hoạt động ngoại giao nhân dân
Cùng với ngoại giao bằng con đường Chính phủ, mặt trận ngoại giao nhân dân đã được tận dụng triệt để. Bà Nguyễn Thị Bình cho biết: “Bất cứ nước nào mời, tổ chức nào mời là chúng tôi tranh thủ đi, ở Pháp, Mỹ, châu Phi hay châu Mỹ, tận dụng mọi cơ hội để tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân, các đảng phái chính trị và các chính phủ…[5]”.
Trong quá trình diễn ra đàm phán, Việt Nam đã đã tạo dựng được một mặt trận nhân dân thế giới, đoàn kết tất cả các lực lượng chính trị tiến bộ trên thế giới, kể cả những thành phần không thuộc phe cộng sản hoặc thậm chí không ưa cộng sản, ủng hộ của đấu tranh chính nghĩa của mình. Ví dụ như Tòa án Quốc tế Bertrant Rousselle được lập ra nhờ những trí thức nổi tiếng, điển hình là ông Bertrant Rousselle, người Thụy Điển và ông Jean Paul Sartre, một nhà triết học Pháp nổi tiếng. Cộng đồng người Việt đông đảo ở Paris đã luôn ủng hộ cuộc kháng chiến của dân tộc, trong đó có rất nhiều sinh viên đi từ miền Nam sang Pháp du học, thậm chí được hưởng học bổng của Chính quyền Sài Gòn, đóng góp của cộng đồng người Việt tại Pháp là vô cùng to lớn.
Trong Hồi ký “Gia đình, bạn bè và đất nước”, Bà Nguyễn Thị Bình đã không khỏi xúc động cho biết trong suốt thời gian đàm phán ở Pháp, cả hai đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã được Đảng Cộng sản Pháp và bà con Việt Kiều giúp đỡ rất tận tình khi viết: “Tôi muốn nói lời cảm ơn sâu sắc bà con Việt Kiều tại Pháp và các nước xung quanh, cảm ơn bạn bè quốc tế đã hết lòng vì cuộc chiến đấu của chúng ta…[6]”.
Hiệp định Paris có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng, thống nhất đất nước của dân tộc ta. Đây chính là văn bản pháp lý quan trọng, toàn diện và đầy đủ nhất mà ở đó có cường quốc được xem là số một của thế giới là Hoa Kỳ phải cam kết tôn tôn trọng độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Nhớ về sự kiện trọng đại này, bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước, khi ấy là Bộ trưởng Ngoại giao, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã xúc động ghi trong hồi ký của mình rằng khi đặt bút ký hiệp định lịch sử này bà đã vô cùng xúc động, nghĩ đến “đồng bào, đồng chí, đến bạn bè ở cả hai miền Nam Bắc… (…) là ân tình sâu đậm mà cả thế giới giành cho cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân ta[7]”.
Trung Kiên
[1] Xem: Trung tâm lưu trữ quốc gia II: Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn, Nxb Chính trị quốc gia, 2012, t1, tr. 367.
[2] http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/binh-luan-phe-phan/item/23012802-su-sup-do-tat-yeu-cua-mot-che-do-bu-nhin-that-bai-tat-yeu-cua-mot-doi-quan-danh-thue.html.
[3] Trung tâm lưu trữ quốc gia II: Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn, Nxb Chính trị quốc gia, 2012, t.1, tr. 75.
[4] Nguyễn Thị Bình :Gia đình, bạn bè, đất nước, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2012, tr. 117.
[5] Nguyễn Thị Bình: Gia đình, bạn bè, đất nước, Sđd, tr. 110.
[6] Nguyễn Thị Bình: Gia đình, bạn bè, đất nước, Sđd, tr. 135.
[7] Nguyễn Thị Bình: Gia đình, bạn bè, đất nước, Sđd, tr. 135.