Những ngày này 55 năm trước, Đồng Lộc là trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ. Đồng Lộc được biết đến không phải chỉ sự hy sinh anh dũng của 10 nữ thanh niên xung phong, còn hàng nghìn người khác đã góp phần làm lên Đồng Lộc anh hùng. Chúng tôi giới thiệu hồi ức của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Uông Xuân Lý vè những hoạt động hằng ngày của ông và đồng đội tại "chảo lửa" Đồng Lộc 55 năm về trước
“55 năm trước, khu vực Ngã ba Đồng Lộc là “yết hầu” nằm trên huyết mạch giao thông để hậu phương lớn miền Bắc chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Với địa thế hiểm yếu như thế, kẻ địch đã đánh phá tàn bạo và ác liệt, chúng đã trút xuống hàng vạn tấn bom các loại. Trên bầu trời Đồng Lộc ngày đó không lúc nào ngớt tiếng gầm rú của máy bay địch, đường sá bị đào bới liên tục, hố bom chồng lên hố bom. Trước tình thế đó, quân và dân trên địa bàn ngày đêm bám trụ, quyết tâm thông đường cho xe ra tiền tuyến với khẩu hiệu “Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Quyết tâm thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”…
Cùng với các đơn vị quân đội, thanh niên xung phong, dân công, nhân dân địa phương, các đơn vị thuộc ngành giao thông vận tải cũng là lực lượng quan trọng thường xuyên có mặt để thực hiện nhiệm vụ. Đến tháng 5/1967, tôi được điều về tổ máy gạt thuộc đội thi công cơ giới, Ty giao thông Hà Tĩnh nhằm tăng cường đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của địch. Với trình độ lái máy được đào tạo qua trường Công nhân kỹ thuật Hoà Bình và kinh nghiệm qua quá trình làm đường số 6 Điện Biên đi Tây Trang, Chợ Bờ đi Mộc Châu, sân bay quân sự Đa Phúc, đập Đại Lải, đường tránh từ Công trình thủy điện Thác Bà đi Đoan Hùng (Phú Thọ). Đến tháng 5/1967, tôi được giao nhiệm vụ làm Tổ trưởng Tổ máy gạt, thuộc Đội thi công cơ giới của Ty Giao thông Hà Tĩnh nhằm tăng cường đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của địch.
Năm 1968, giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, Ngã ba Đồng Lộc là trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ chỉ trong vòng 6 tháng (tháng 4 - 10/1968) chúng đã đánh vào Đồng Lộc 1.863 lần với hơn 42.990 quả bom các loại, riêng ngày 15/7/1968, chúng đánh 103 lần. Ý đồ của đế quốc Mỹ là biến Ngã ba Đồng Lộc thành một bãi hoang không có một bóng người, không một chuyến xe qua, trở thành điểm chết để cắt đứt sự chi viện của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam. Giữa tháng 4/1968, để bổ sung lực lượng cho Ban Chỉ huy giải toả Đồng Lộc (thành lập trong tháng 5/1968), đơn vị thi công cơ giới của tôi được gấp rút điều động về bảo đảm giao thông tại khu vực trọng yếu này. Riêng Tổ máy gạt do tôi làm Tổ trưởng được giao nhiệm vụ bảo đảm giao thông ngay tại Ngã ba đồng Lộc. Tại đây, chúng tôi - những công nhân giao thông, thanh niên xung phong đã cống hiến những tháng ngày đẹp nhất của tuổi trẻ, nhiệt huyết lập nên nhiều thành tích trên mặt trận bảo đảm giao thông, góp phần làm nên những chiến công huyền thoại của quân và dân Hà Tĩnh.
Anh hùng LLVTND Uông Xuân Lý
Tại vị trí được coi là chảo lửa, túi bom lúc bấy giờ, hằng ngày, máy bay địch thường xuyên quần đảo, bắn róckét, ném bom bi, bom sát thương, bom từ trường, bom nổ chậm; ban đêm lại thả pháo sáng dò tìm lực lượng của ta để huỷ diệt. Tổ máy chủ lực được điều động đến Đồng Lộc với nhiệm vụ khẩn thiết nhất lúc bấy giờ là phải bảo đảm thông xe đồng bộ, bằng mọi giá trên cả tuyến dài gần 5 km, nên chúng tôi phân công các máy lên tuyến theo lịch. Riêng tôi chịu trách nhiệm một máy luôn có mặt ở những vị trí xung yếu nhất, kịp thời hỗ trợ máy khác và các lực lượng tham gia, bảo đảm thông xe đồng loạt trên toàn tuyến. Thời điểm đó, không thể kể hết những cam go, thử thách, không thể đo đếm được những hiểm nguy giữa cuộc chiến giữ đường của những con người bằng xương, bằng thịt với từng đoàn “quạ sắt” của không quân Mỹ vãi bom như vãi trấu. Để bảo đảm an toàn, hạn chế tổn thất, buồng lái của máy được tháo hết kính chắn gió, mặt trong lót thêm lớp tôn, chèn thêm dẻ rách, chăn chiên và rạ nhằm chống lại bom bi. Do hai dây xích và cái lưỡi gạt bằng thép liên tục hoạt động, cọ xát với đất đá trở thành vật phản quang khi có pháo sáng chiếu vào nên chúng tôi đã ngụy trang máy bằng một lớp bùn đất, tháo hết các loại đèn chiếu sáng, loại bỏ hoàn toàn ánh sáng nhân tạo trong vùng máy hoạt động.
Trong điều kiện không đèn, không trăng, không người chỉ dẫn, thợ lái máy chúng tôi phải tự mình tạo ra cách dò đường bằng cảm giác để điều khiển xe san ủi đất. Dựa vào cảm giác của tai, nghe tiếng xích, tiếng máy để phân biệt đường gập ghềnh, biết đất chưa bằng để gạt và đầm qua cho bằng. Với những sáng kiến, kinh nghiệm và trên hết là lòng quả cảm, tổ máy gạt chúng tôi đã bí mật san lấp hàng trăm hố bom trong đêm, bảo đảm thông đường cho xe ra tiền tuyến; đóng góp một phần công sức cùng các lực lượng hoàn thành nhiệm vụ.
Từ khi về Ngã ba Đồng Lộc, tổ máy của chúng tôi không kể ngày đêm, mưa bom, bão đạn, khi được thông báo có bom nổ chậm cản đường là cả tổ có mặt cùng các phương tiện xe máy sẵn sàng hoạt động; phối hợp với Đại đội 557 do đồng chí Lân làm Đại đội trưởng để bảo dưỡng mặt đường. Tổ máy đã kéo hàng trăm xe bị đổ để các đồng chí thanh niên xung phong bốc cứu hàng trăm tấn hàng, hạn chế tổn thất. Ngoài ra, anh em chúng tôi còn phân công nhau, người lái máy, người mặc áo trắng, dùng khăn làm tín hiệu dẫn đường cho xe chạy, vượt qua đoạn đường nguy hiểm.
Ngã ba Đồng Lộc 55 năm về trước (Ảnh tư liệu)
Nhớ về một thời máu lửa chiến tranh, nhớ đồng đội và những anh em đã ngã xuống vì lý tưởng cao đẹp của đất nước, cảm xúc dâng trào trong lồng ngực. Một trong những ký ức không thể nhạt phai trong cuộc đời tôi, đó là lần giáp mặt với tử thần mở đường máu ở Cầu Tối. Ngày 13/6/1968, tại đầu Bắc của cầu, địch thả một loạt bom nổ chậm, công binh đã tập trung rà phá nhưng còn hai quả bom nằm gần nhau chưa phá được. Nhiệm vụ khẩn trương phải bảo đảm an toàn cho đoàn xe ra tiền tuyến và phương án dùng máy ủi rà bom được triển khai. Người lái máy phải phối hợp dò xét loại bom, nếu không phải là bom từ trường thì cho máy băng qua và thông xe khẩn trương trước giờ bom nổ. Tình huống rất căng thẳng, anh em trong tổ đều xung phong nhận trách nhiệm về mình. Bản thân tôi là tổ trưởng, nhận thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ, dù phải đối mặt với cái chết nhưng tôi đã quyết tâm đảm nhận trách nhiệm này. Lúc lên xe đồng đội đã xếp hàng tiễn biệt đầy lo lắng; tôi nhanh chóng nổ máy, lợi dụng pháo sáng, tôi cho máy tiến gần quả bom. Sau gần nửa tiếng đồng hồ cho máy tiếp cận gần quả bom rồi lùi nhanh, quả bom vẫn lì lợm nằm đó không chịu nổ. Lúc đó, một ý nghĩ vụt đến trong tôi, đó là, phải cho máy tiếp xúc trực tiếp với hai quả bom. Nếu bom nổ, chấp nhận hy sinh còn nếu bom không nổ, nó sẽ bị đẩy ra khu vực an toàn. Suy nghĩ và quyết định nhanh, tôi liền cho máy tiến lên, hạ thấp lưỡi gạt, tăng mạnh ga nhằm thẳng cọc tiêu đẩy tới. Quả bom bị đẩy bật ra khỏi lòng đất, vẫn không phát nổ. Không còn thời gian lưỡng lự, tôi cho máy tiến lên và đẩy quả bom ra xa lòng đường. Thời gian trôi từng phút chậm chạp, căng thẳng. Khi quả bom thứ nhất được đẩy ra xa cách đường chừng 30 m, tôi tiếp tục gạt quả bom thứ hai và cứ như thế sau một tiếng đồng hồ, hai quả bom đã cách con đường dã chiến chừng 30 đến 50m trong tiếng reo mừng và những vòng tay ôm chặt của đồng đội, trả lại con đường cho đoàn xe vận tải 100 chiếc chở hàng hoá, vũ khí vào Nam đánh giặc. Lực lượng công binh xác nhận đó là hai quả bom nổ chậm, một quả nổ sau đó mấy ngày và một quả còn lại mấy tháng sau mới nổ. Thần chết đã không làm gì được chúng tôi. Ý chí kiên cường, lòng quyết tâm đã giúp tôi và đồng đội vượt qua khó khăn, nguy hiểm để hoàn thành nhiệm vụ.
Chiến tranh đã lùi xa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước từng bước vượt qua khó khăn, đi lên chủ nghĩa xã hội; công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa - hiện đại hóa được đẩy mạnh, kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; đời sống nhân dân được cải thiện từng ngày. Sau 50 năm, thật ý nghĩa và tự hào khi trên hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại, Ngã ba Đồng Lộc đã được Đảng, Nhà nước, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và tỉnh Hà Tĩnh đầu tư xây dựng trở thành Khu Di tích Lịch sử Quốc gia đặc biệt; là địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống cách mạng và là điểm du lịch tâm linh của đông đảo du khách trong và ngoài nước. Năm 1970, Tổ máy được Nhà nước tặng Huy chương Chiến công hạng Nhì. Bản thân tôi, năm 2010, đặc biệt vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.
Những người thợ máy chúng tôi nói riêng và những cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong cùng những người đã một thời có mặt chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại chiến trường Đồng Lộc may mắn được hưởng cuộc sống trong hòa bình, độc lập, tự do, có cơm no, áo ấm không bao giờ nguôi nỗi nhớ đồng đội thân yêu - Những người đã cống hiến trọn cả tuổi thanh xuân, hạnh phúc riêng tư và xương máu của mình cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Chúng tôi cũng mong muốn được nhắc lại và gửi gắm đến thế hệ trẻ ngày nay câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, vì vậy, tuổi trẻ hãy vững tin, bền chí, mạnh mẽ tiến bước dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam; xung kích, đi đầu trên các lĩnh vực, đóng góp trí tuệ, công sức của mình, xứng đáng là lực lượng chủ nhân của đất nước, luôn sẵn sàng khi Tổ quốc gọi tên”.
Uông Xuân Lý - Anh hùng LLVTND