Đạo quân Quan Đông từng là niềm tự hào của quân phiệt Nhật Bản trên chiến trường châu Á. Tuy nhiên, đầu tháng 8/1945, cùng với sự sụp đổ của Nhật Bản, đội quân này cũng viết những trang sử thất bại cuối cùng
Sức mạnh của đội quân Quan Đông
Đạo quân Quan Đông là một trong 6 tổng quân của lục quân Nhật Bản, được thành lập năm 1919 để bảo vệ Quan Đông là tô giới của Nhật tại Trung Quốc.
Trước năm 1937, biên chế đơn vị cao nhất của lục quân Nhật là cấp sư đoàn. Tuy nhiên, các sư đoàn đóng ở nước ngoài đều có quy mô cấp quân đoàn và được gọi là “quân”.
Khi chiến tranh Trung-Nhật bùng phát, các đơn vị cấp quân đoàn chính thức được thành lập, đồng thời cũng hình thành biên chế đơn vị mới là cấp phương diện quân, song quân số chỉ vào khoảng 70.000 đến 100.000 quân, tức chỉ tương đương với cấp tập đoàn quân tiêu chuẩn của châu Âu.
Năm 1939, do yêu cầu tác chiến viễn chinh, biên chế đơn vị trên cấp phương diện quân là cấp “tổng quân” (đạo quân) được thành lập. Một tổng quân thường phụ trách một địa bàn mặt trận, cơ cấu gồm cả bộ binh, cơ giới, thiết giáp, pháo binh, không quân, hải quân, hiến binh...; biên chế thường từ 750.000 đến 1 triệu binh sĩ, tương đương với cụm tập đoàn quân Đức quốc xã.
Tổng tư lệnh tổng quân mang hàm Đại tướng, được trao quyền rất lớn cả về quân sự lẫn chính trị, giữ vai trò như một toàn quyền tại các vùng chiếm đóng.
Tư lệnh đầu tiên là Tachibana Koichiro, sau được thăng đại tướng. Tư lệnh thứ 9 của quân đoàn này là Honjo Shigeru, chính là người năm 1931 đã chỉ huy chiến dịch Phụng Thiên xâm lược Mãn Châu (tháng 9/1931). Tư lệnh thứ 13 là Ueda Kenkichi, năm 1939 đã chỉ huy quân đoàn giao chiến với Hồng quân Liên Xô tại Khalkhin Gol và bị thất trận.
Ngày 01/10/1942, quân đoàn Quan Đông được nâng cấp thành Tổng quân Quan Đông, Tổng tư lệnh là Đại tướng Umezu Yoshijiro (là chỉ huy thứ 14), từ năm 1942 kiêm Tổng tư lệnh lục quân.
Đạo quân Quan Đông được xem là đạo quân tinh nhuệ nhất của lục quân Nhật, gồm những binh sĩ ưu tú được tuyển chọn từ khắp các đơn vị lục quân. Địa bàn phụ trách của đạo quân này là khu vực Mãn Châu và Bắc Trung Quốc, tổng hành dinh đóng tại Trường Xuân.
Biên chế ban đầu gồm 3 tập đoàn quân (1, 3, 17), và 3 quân đoàn độc lập với hơn 31 sư đoàn tác chiến, 11 lữ đoàn độc lập (trong đó có 2 lữ đoàn xe tăng), binh lực lúc cao điểm lên đến 1,3 triệu quân. Mặc dù có tên thường gọi là “Đức binh đoàn”, song đạo quân này lại nổi tiếng với những vụ buôn bán thuốc phiện và những tội ác man rợ với nhân dân vùng chiếm đóng. Đây là đạo quân bao gồm các binh lính ưu tú nhất cũng như cuồng tính nhất đối với chủ nghĩa quân phiệt của Nhật Bản. Không chỉ nổi tiếng dã man, Đạo quân Quan Đông của Nhật Bản còn nổi tiếng với một loạt các tội ác chiến tranh khác, trong đó bao gồm cả các tội ác nghiên cứu vũ khí hoá học và thử nghiệm trên người.
Đạo quân Quan Đông tại Trung Quốc (Ảnh tư liệu)
Liên Xô tuyên chiến và đánh tan đạo quân Quan Đông
Thực hiện thỏa thuận tại Hội nghị Ianta (tháng 2/1945), đúng 0 giờ ngày 9/8/1945, Hồng quân Liên Xô từ bốn hướng ồ ạt tiến công đạo quân Quan Đông, đồng thời Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô cũng đổ quân vào Bắc Triều Tiên, tiến vào phía Nam đảo Sakhalin và quần đảo Kuril, bắt đầu Chiến dịch Mãn Châu[1]. Chiến dịch Mãn Châu với mục tiêu trực tiếp là đập tan đạo quân Quan Đông của Nhật Bản, giải phóng Mãn Châu và Bắc Triều Tiên, đập tan các căn cứ bàn đạp chiến tranh của Nhật ở trên lục địa, đẩy nhanh quá trình kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai.
Lực lượng tham gia chiến dịch này, cùng với Hồng quân Liên Xô còn có quân đội Mông Cổ, bao gồm: Phương diện quân Dabaican, các phương diện quân Viễn Đông 1 và 2, các đơn vị quân đội nhân dân cách mạng Mông Cổ, Hạm đội Thái Bình Dương và Ham đội Cờ đỏ sông Amua; tổng cộng khoảng 1.500.000 quân, 26.000 khẩu pháo, cối (không kể pháo phòng không), gần 5.300 xe tăng và pháo tự hành, 5.200 máy bay và nhiều tàu chiến.
Ý định chiến dịch: Mở cuộc tiến công trên hai hướng chủ yếu (từ phía Mông Cổ và vùng duyên hải) và một số hướng bổ trợ, quy tụ vào trung tâm Mãn Châu, nhanh chóng chia cắt, bao vây, tiêu diệt Đạo quân Quan Đông của Nhật. Chính diện chiến dịch có chiều dài 5.000 km, chiều sâu từ 200 đến 800 km, địa hình chiến trường là hoang mạc - thảo nguyên và núi rừng Taiga, có nhiều sông lớn.
Vào thời gian này, đạo quân Quan Đông do Đại tướng Yamada Otozo làm Tổng tư lệnh và Trung tướng Hata Hikosaburo làm Tham mưu trưởng, bao gồm các Phương diện quân 1 và 3, Tập đoàn quân độc lập số 4 và Tập đoàn không quân số 2, Hạm đội trên sông Tùng Hoa, từ ngày 10/8 được phối thuộc thêm: Phương diện quân số 17 và Tập đoàn không quân số 5 ở Triều Tiên, tổng cộng trên 1.000.000 binh sĩ, 1.155 xe tăng, 5.360 khẩu pháo, cối, 1.800 máy bay và 25 tàu chiến. Ngoài ra, còn lực lượng lớn sen đầm, cảnh sát và binh lính của Quận vương Đêvan ở Mãn Châu và Nội Mông. Trên biên giới với Liên Xô và Mãn Châu, quân Nhật xây dựng 17 khu vực phòng ngự kiên cố với tổng chiều dài trên 1.000 km và trên 8.000 công trình phòng thủ vững chắc có hỏa lực mạnh.
Để chống trả các đơn vị Xôviết, Bộ chỉ huy Nhật chủ trương cố thủ trong các tuyến phòng ngự vững chắc dọc biên giới, phòng ngự linh hoạt ở nội địa, tránh đụng độ lớn mà chỉ tìm cách tiêu hao, cầm giữ đối phương và rút dần, qua đó, dựa vào các dãy núi lớn để chặn đứng cuộc tiến công của quân đội Liên Xô rồi tạo cơ hội để phản công. Trường hợp tuyến phòng thủ này bị phá vỡ, chúng sẽ lui về tuyến đường sắt Đồ Môn - Trường Xuân - Đại Liên, tổ chức phòng ngự, củng cố và chuyển sang phản công khôi phục lại vị trí ban đầu.
Ngày 9/8/1945, các cụm đột kích của các phương diện quân Hồng quân Liên Xô chuyển vào tiến công từ Mông Cổ và Dabaican theo hướng Khingan - An Sơn, từ sông Amua theo hướng sông Tùng Hoa và từ duyên hải theo hướng Cáp Nhĩ Tân. Không quân ném bom mãnh liệt vào các mục tiêu quân sự ở Cáp Nhĩ Tân, Trường Xuân, Cát Lâm và cùng hạm đội đánh phá các căn cứ hải quân Nhật ở Bắc Triều Tiên.
Binh lính đạo quân Quan Đông bị bắt làm tù binh (Ảnh tư liệu)
Ngày 18, 19/8/1945, Phương diện quân Dabaican, dưới sự chỉ huy của Nguyên soái R.Ia Malinôpxki đã vượt qua các thảo nguyên, sa mạc Gôbi và dãy núi Khingan lớn, tiêu diệt các cụm quân Cangan, Xôlun, Khaila của Nhật, và đến ngày 20/8, chủ lực của Tập đoàn quân số 6 đã tiến đến An Sơn và Trường Xuân, tiếp tục thọc sâu về phía Đại Liên và quân cảng Lữ Thuận. Bộ đội kỵ binh và bộ binh cơ giới Liên Xô - Mông Cổ đã tiến công đến Trượng Gia Khẩu, Thừa Bắc, cắt đứt Đạo quân Quan Đông với các lực lượng Nhật ở Bắc Trung Quốc.
Phương diện quân Viễn Đông số 1, dưới sự chỉ huy của Nguyên soái K.A. Merêxcôp tiến công theo hướng đối diện với phương diện quân Dabaican, vượt qua tuyến phòng ngự vững chắc của Nhật, đập tan nhiều đợt phản kích, và đến ngày 20/8, đã tiến đến Cát Lâm, hợp quân cùng Phương diện quân Viễn Đông số 2 tiến công Cáp Nhĩ Tân; Tập đoàn quân số 25 hiệp đồng với các lực lượng đổ bộ của Hạm đội Thái Bình Dương đánh chiếm căn cứ hải quân và giải phóng toàn bộ Bắc Triều Trên đến vĩ tuyến 38.
Phương diện quân Viễn Đông số 2 dưới sự chỉ huy của Đại tướng M.A. Puccaép hiệp đồng với Hạm đội sông Amua vượt sông thắng lợi ở khu vực Uxuri, đột phá tuyến phòng ngự cực kỳ kiên cố của địch ở Xakhalin, Phục Tân, vượt qua dãy Khingan nhỏ, và đến ngày 20/8, hiệp đồng với Phương diện quân Viễn Đông số 1 tiến công Cáp Nhĩ Tân.
Trước sự tiến công đồng loạt trên toàn mặt trận của quân đội Liên Xô, chỉ sau 10 ngày, tuyến phòng thủ của đạo quân Nhật đã bị chọc thủng.
Từ ngày 19/8, quân Nhật trên nhiều hướngbắt đ ầu ra hàng. Tính đến ngày 20/8, quân đội Liên Xô đã thọc sâu vào Mãn Châu 400 - 800 km ở phía Tây, 200 - 300 km ở phía Đông và phía Bắc, tiến vào đồng bằng Mãn Châu, chia cắt, bao vây, tiêu diệt các cụm quân Nhật. Cùng thời gian này, các đơn vị đổ bộ đường không Liên Xô nhảy dù đánh chiếm những vị trí then chốt nằm sâu trong hậu phương quân Nhật.
Để đẩy nhanh quá trình tan rã và không cho địch kịp sơ tán, phá huỷ các công trình xây dựng, Hồng quân Liên Xô đã đổ bộ bằng đường không và sử dụng các cụm cơ động đánh chiếm các thành phố lớn: Cáp Nhĩ Tân, An Sơn, Trường Xuân, Cát Lâm, Đại Liên, Cảng Lữ Thuận, Bình Nhưỡng, Cancô. Cuộc tiến công thần tốc của Hồng quân Liên Xô vào Mông Cổ đã đẩy quân Nhật vào tình trạng không lối thoát và đập tan mưu đồ cố thủ rồi chuyển dần sang phản công của Bộ chỉ huy Nhật. Việc đập tan Đạo quân Quan Đông và chiếm các căn cứ kinh tế - chiến tranh của Nhật trên lục địa đã làm cho Nhật không còn khả năng tiếp tục chiến tranh.
Sáng 19/8/1945, tại đại bản doanh ở Trường Xuân, Tổng tư lệnh đạo quân Quan Đông Yamada tự tay tháo kiếm trao cho đại diện Hồng quân, chấp nhận đầu hàng. Tối cùng ngày, Yamada và “Thủ tướng” Mãn Châu ký biên bản “đầu hàng toàn bộ và giao nộp vũ khí, phương tiện chiến tranh, kho tàng quân dụng”. Lá cờ Nhật bị hạ xuống và lá cờ Liên Xô tung bay trên nóc toà nhà Bộ chỉ huy đạo quân Quan Đông. Nhưng ở một số nơi, quân đội Liên Xô vẫn phải tiếp tục chiến đấu khoảng 2 tuần lễ nữa mới đánh bại hoàn toàn quân Nhật.
Việc Hồng quân Liên Xô mở Chiến dịch Mãn Châu tiến công đạo quân Quan Đông của Nhật đã khiến đế quốc Nhật Bản rơi vào “tình thế hoàn toàn không có lối thoát", như lời Thủ tướng Kantaro Suzuki đánh giá. Rơi vào thế “lưỡng đầu thọ địch”, bị cả hai đối thủ mạnh nhất tiến công (Hoa Kỳ và Liên Xô) khiến giới cầm quyền Nhật Bản phân hóa sâu sắc. Dù còn nhiều ý kiến tranh cãi về việc đánh giá vai trò của Chiến dịch Mãn Châu đối với việc quân phiệt Nhật Bản chấp nhận đầu hàng, song, việc Liên Xô tuyên chiến và đánh tan đạo quân Quan Đông tinh nhuệ bậc nhất của Nhật đã khiến đế quốc này nhanh chóng sụp đổ và chấp nhận đầu hàng Đồng Minh, kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai tại Châu Á.
Lê Na
[1] Chiến dịch Mãn Châu bắt đầu ngày 9/8/1945, kết thúc ngày 2/9/1945.