Từ trước đến nay, Trung Quốc luôn trích dẫn, diễn giải một cách méo mó những ghi chép, tư liệu trong sử sách cổ của họ để biện minh cho yêu sách chủ quyền vô căn cứ trên Biển Đông. Tuy nhiên, những hành động trên của Trung Quốc không thể che mờ những bằng chứng lịch sử, pháp lý thể hiện nhất quán cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam. Một trong những bằng chứng lịch sử xác thực thể hiện điều đó là tấm bản đồ “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” do triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc thực hiện
Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ (Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam)
“Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ”, (Dịch nghĩa: Địa dư toàn đồ tới các tỉnh của triều đình nhà Thanh) là tấm bản đồ được chính các Hoàng đế nhà Thanh nhiều lần thuê các giáo sĩ và chuyên gia phương Tây, những người tinh thông về thiên văn, địa lý và toán pháp để vẽ nên bản đồ Trung Quốc. Đến năm 1904, trải qua gần 200 năm, bản đồ mới chính thức hoàn tất và được nhà xuất bản Thượng Hải chính thức xuất bản, là bản đồ chính thức của Trung Quốc, phản ánh một cách đầy đủ và khách quan phạm vi và địa dư của Trung Quốc trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XVIII cho đến đầu thế kỷ XX. Tấm bản đồ này do Tiến sĩ Mai Hồng (tên thật là Mai Ngọc Hồng), nguyên Trưởng phòng Tư liệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng Phả học Việt Nam sưu tầm và đã trao tặng Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam năm 2012.
Giá trị khoa học, lịch sử và pháp lý của tấm bản đồ thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất: Bản đồ có kích thước 115x140 cm, được tạo thành từ 35 miếng ghép dán (bồi) trên vải bố, mỗi miếng có kích thước 20 x 30 cm. Tấm bản đồ được vẽ bằng kĩ thuật trắc địa với hệ thống kinh độ, vĩ độ khá chính xác, giống như các bản đồ ngày nay. Vì thế, vị trí địa lý thể hiện trên bản đồ là chính xác so với thực tế.
Thứ hai: Tấm bản đồ do chính các Hoàng đế nhà Thanh chỉ đạo thực hiện trong gần hai thế kỷ. Năm 1711, vua Khang Hy nhà Thanh đã “sai các giáo sĩ đi tới khắp 13 tỉnh, đo lường đất đai tạo bản đồ” và “trải qua một năm bốn lần đọc duyệt, quy mô bắt đầu định hình. Các giáo sĩ đều được triệu tập về kinh đô để họ múa bút họa vẽ, sau hai năm công việc cáo thành bàn đem bức Toàn đồ 15 tỉnh, tấu trình lên vua ngự lãm, ngài vui khuyến khích bằng nghi lễ long trọng”. Trên cơ sở bộ bản đồ này, các chuyên gia Trung Quốc và phương Tây còn sưu tập khảo cứu các dư đồ Trung Quốc, gia cố bồi tập thêm vào các nguyên cảo của các giáo sĩ đã soạn thảo trước đây, “xem chỗ nào thiếu thì bổ sung, chỗ nào nhầm lẫn thì đính chính sửa sang, nhằm làm bớt sai suyễn và làm sáng sủa hơn để nay khi nhìn vào đó thấy rõ ràng như nhìn vào lòng bàn tay, tại các cửa biển ở các miền diên hải đều phòng họa các đường thủy tàu thuyền ra khơi vào cảng” (lời tựa trên tấm bản đồ). Điều này cho thấy tấm bản đồ đã được vẽ rất cẩn trọng, tỉ mỉ và khoa học, thể hiện chính xác ý chí chủ quyền của nhà nước Trung Quốc cũng như nhà cầm quyền lúc bấy giờ. Và chủ quyền đó được thể hiện một cách rõ ràng, minh bạch trên bản đồ: ranh giới phía nam của Trung Quốc chỉ đến cực nam của đảo Hải Nam hay vùng biển đảo phía dưới cực nam của đảo Hải Nam hoàn toàn nằm ngoài lãnh thổ Trung Quốc.
Thứ ba: Bên trái góc dưới của bản đồ có vẽ bán cầu đông, trên đó thể hiện vị trí nước Trung Quốc trong tổng thể quả địa cầu. Bản đồ bán cầu này thể hiện toàn bộ châu Á, châu Âu, một phần châu Phi… trong đó có các nước Đông Nam Á. Nhưng trên phần Biển Đông không thể hiện bất cứ điều gì để ghi nhận chủ quyền của nhà nước Trung Hoa thời đó. Điều này chứng tỏ, gần 200 năm lập bản đồ, nhà nước Trung Quốc thời bấy giờ đều mặc định vùng biển phía Nam đảo Hải Nam (tức Biển Đông) nằm ngoài lãnh thổ quốc gia.
Thứ tư: Bản đồ có kích thước hình chữ nhật nên rất khó thể hiện đầy đủ địa giới hành chính của toàn lãnh thổ Trung Quốc. Và để khắc phục điều này, các nhà thực hiện bản đồ đã vẽ riêng những bản đồ phụ vẽ phần diện tích lãnh thổ chưa thể hiện hết và đặt vào bên trong bản đồ chính. Như vùng Mãn Châu ở phía Đông Bắc được ghi là He Long Kiang (tức Hắc Long Giang) và được vẽ vào góc dưới bên phải bản đồ. Vùng Tân Cương được ghi là Sin Kiang và được vẽ riêng, đặt góc phía trên bên trái bản đồ. Nếu như khu vực Biển Đông, kể cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc thì lẽ dĩ nhiên phải có thêm bản đồ phụ thể hiện như các nhà đo vẽ bản đồ đã làm đối với vùng Mãn Châu và Tân Cương. Nhưng điều này tuyệt nhiên không hề có. Điều này nói lên một sự thật rõ ràng, nhà Thanh chưa hề có bất cứ một khái niệm gì về chủ quyền trên Biển Đông, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như những tham vọng về chủ quyền mà các chế độ nhà nước Trung Hoa sau này đòi hỏi. Trong khi đó, Việt Nam giai đoạn này đã thể hiện rõ ràng chủ quyền quốc gia trên Biển Đông, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ở phương diện bản đồ, từ thế kỷ XVII, nhiều bản đồ cổ đã thể hiện chủ quyền của nhà nước Việt Nam đương thời đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tấm bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ do vua Minh Mạng cho vẽ vào năm 1838, thể hiện hai địa danh Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa bằng chữ Hán thuộc lãnh thổ của nhà nước Việt Nam.
Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ là một minh chứng lịch sử, pháp lý khách quan thể hiện Trung Quốc không hề có bất cứ chủ quyền gì đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cũng như phần lớn diện tích Biển Đông. “Tấm bản đồ hơn trăm năm này không chỉ mang đến những thông tin lịch sử giá trị mà tự thân nó nói lên một thông điệp rằng, từ năm 1904, trong nhận thức của người Trung Quốc, cực nam đất nước của họ chỉ đến đảo Hải Nam. Đồng nghĩa, đây là một bằng chứng tư liệu do chính Trung Quốc xuất bản khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc chủ quyền của Trung Quốc”[i].
[i] Mai Hồng – Lê Trọng: Hoàng Sa, Trường Sa là máu thịt Việt Nam, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2015, tr.57