Việt Nam cần sử dụng năng lượng hiệu quả và có một phương án với chi phí phù hợp trong chuyển dịch năng lượng. Ảnh minh họa: internet
Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), lần đầu tiên Việt Nam cam kết sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính để đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Thực tế, Việt Nam cũng đang tích cực thực hiện chuyển dịch năng lượng hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
Theo ông Rahul Kitchlu, Điều phối viên Chương trình phát triển hạ tầng, Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, lĩnh vực năng lượng, với vai trò cung cấp tiếp cận điện năng cho toàn dân, đóng vai trò quan trọng cho quá trình chuyển đổi kinh tế Việt Nam.
Để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch năng lượng nhằm đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0, chuyên gia WB đã đưa ra 6 khuyến nghị cho Việt Nam.
Thứ nhất, để giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, Việt Nam có thể hiện thực hóa việc tạo ra thêm khoảng 370 GW năng lượng tái tạo vào năm 2040 chủ yếu qua đầu tư tư nhân. Theo đó, cần có các cải tiến trong việc hoạch định mở rộng hệ thống năng lượng, khung pháp lý đối với việc thu mua để đảm bảo nguồn cung năng lượng tái tạo có chi phí thấp.
Đặc biệt, những chính sách hàng rào thương mại đã góp phần vào sự phát triển nhanh chóng của năng lượng tái tạo nên được thay thế bởi cơ chế dựa trên cạnh tranh một cách hệ thống và minh bạch. Từ đó giúp mang đến các dự án năng lượng tái tạo từ nguồn vốn tư nhân hoạt động hiệu quả với chi phí thấp, giúp đáp ứng nhu cầu năng lượng của Việt Nam một cách bền vững.
Thứ hai, nhằm đáp ứng được lượng năng lượng tái tạo tăng lên, hệ thống điện có thể cần dung lượng dự trữ khoảng 60 GW cho tới năm 2040. Đầu tư công vào lưới điện và tính linh hoạt của hệ thống cũng giúp giảm thiểu các nguy cơ liên quan tới đầu tư tư nhân trong năng lượng tái tạo.
Theo WB, việc tích hợp nguồn năng lượng tái tạo phát triển nhanh chóng sẽ đòi hỏi việc tăng cường đầu tư vào lưới điện. Mặc dù Việt Nam đã rất thành công trong việc mở rộng quy mô của các dự án tư nhân trong năng lượng tái tạo, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế trong lĩnh vực này.
Thứ ba, thúc đẩy truyền tải và mua bán điện giữa các khu vực cũng giúp tăng việc nhập khẩu năng lượng sạch. Việt Nam có thể cân nhắc ưu tiên nhập khẩu điện từ Lào và Trung Quốc do 2 quốc gia này có nguồn thủy điện phong phú. Nhập khẩu năng lượng sạch là một phương án khả thi để hỗ trợ các chiến lược giảm carbon một cách hiệu quả, chi phí thấp cho ngành điện.
Thứ tư, Việt Nam cần sử dụng năng lượng hiệu quả và có một phương án với chi phí phù hợp trong chuyển dịch năng lượng. Việc thực hiện các biện pháp sử dụng năng lượng hiệu quả và đầu tư nhằm giảm nhu cầu năng lượng một cách chủ động và trên quy mô toàn quốc có thể giúp Việt Nam tránh được việc phải tăng thêm 12 GW sản lượng điện tới năm 2030.
Cải thiện khung chính sách và thúc đẩy năng lực cho các tổ chức địa phương về sử dụng năng lượng hiệu quả nên là một phần quan trọng trong kế hoạch giảm carbon của Việt Nam.
Thứ năm, phát triển nguồn khí tự nhiên như nguồn nhiên liệu trong quá trình chuyển dịch giúp thay thế việc sản xuất điện từ than cần phải được hoạch định cẩn thận và đầu tư có chọn lọc trong các dự án nhập khẩu khí hóa lỏng.
Để làm như vậy, Việt Nam cần cân nhắc cả nguy cơ của việc trì hoãn chuyển dịch năng lượng xanh trong thời gian dài. Năng lượng từ khí tự nhiên là một phương án thay thế than trong việc tăng cường tính ổn định và linh hoạt của hệ thống năng lượng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao cũng như việc tích hợp năng lượng tái tạo.
Thứ sáu, quy hoạch phát triển điện lực 8 sắp tới sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc cân bằng giữa các nguồn cung đa dạng và xác định được lộ trình để chuyển dịch năng lượng cho nền kinh tế phát thải ròng bằng 0. Dù có nhiều bước tiến đáng kể, bản kế hoạch sơ bộ vẫn chưa song hành trọn vẹn với mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Ông Rahul Kitchlu cũng đưa ra lưu ý, quá trình chuyển dịch năng lượng sẽ đòi hỏi vốn đầu tư và cần giảm thiểu tác động lên giá điện. Theo phân tích của WB, sắp tới Việt Nam sẽ cần khoảng 166 tỷ USD để đầu tư cho ngành điện tới năm 2040 để chuyển dịch theo các mục tiêu của COP 26. Con số này cao hơn khoảng 50% so với con số 109 tỷ USD được ước tính theo kịch bản chính sách hiện tại được nêu ra trong PDP8 sơ bộ. Giá điện trung bình cũng có thể tăng khoảng 25% vào năm 2040.
“Để đáp ứng nhu cầu tài chính, cần có sự kết hợp của nhiều nguồn lực, bao gồm tái phân bổ nguồn tiết kiệm nội địa cho các dự án liên quan đến khí hậu, tăng dự trữ quốc gia, và nguồn hỗ trợ tài chính từ bên ngoài. Nguồn vốn ODA có thể giúp giảm thiểu nguy cơ và huy động lĩnh vực kinh tế tư nhân, cải thiện tính tiếp cận của các dịch vụ về điện. Việt Nam nên làm việc chặt chẽ với các đối tác phát triển đa phương và song phương để đảm bảo nguồn tài chính cho các nỗ lực chuyển dịch năng lượng xanh”, ông Rahul Kitchlu cho hay./.
Theo VNeconomy